- Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về năng lực cạnh tranh của NHTM, đặc biệt trong điều kiện của các NHTM Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Techcombank trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
Techcombank.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của NHTM và các nhân tố tạo nên năng
lực cạnh tranh của NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu: Số liệu thu thập và phân tích của Techcombank trong giai đoạn từ 2006 – 2012.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Techcombank trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 1
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Nhtm
- Phương Pháp Phân Tích Các Yếu Tố Cấu Thành Năng Lực Cạnh Tranh
- Kinh Nghiệm Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Một Số Nhtm Trên Tg
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp điều tra, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, dự báo để nghiên cứu đưa ra các đề xuất cụ thể, nhằm đánh giá và hệ thống hóa các vấn đề nghiên cứu và đưa ra các đánh giá cho luận văn.
5. Đóng góp của luận văn
Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại như Luận án Tiến sỹ của Trịnh Quốc Trung, trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh với đề tài “Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của các NHTM đến năm 2010” hoặc Luận văn Thạc sỹ của Trần Thị Nguyệt, trường Đại học Ngoại thương với đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế 2007 – 2010” hay Luận án Tiến sỹ của Lê Hồng Phong, Học viện Ngân hàng với đề tài “Nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam”. Cũng có một số công trình nghiên cứu đến năng lực cạnh tranh của một số ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam như đề tài Luận văn Thạc sỹ “Năng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đông Á trong tiến trình Hội nhập Kinh tế quốc tế” của tác giả Đỗ Diệu Trang, Đại học Ngoại thương.
Luận văn “Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là một nghiên cứu mới, không trùng lặp với các nghiên cứu trước đây, tập trung đề
xuất cho một ngân hàng cụ thể là ngân hàng TECHCOMBANK. Luận văn đã thể hiện được các điểm mới đó là:
- Thứ nhất: Tập trung nghiên cứu vấn đề tăng cường năng lực cạnh tranh cho một ngân hàng cụ thể đó là Ngân hàng TECHCOMBANK trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về năng lực cạnh tranh của NHTM.
- Thứ hai: Đề xuất các giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TECHCOMBANK với mô hình tổ chức phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động kinh doanh của NHTM và năng lực
cạnh tranh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) trong giai đoạn 2006-2012.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của TMCP Kỹ thương
Việt Nam (Techcombank) trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình thực hiện đề tài, được hướng dẫn tận tình của TS. Đào Thanh Bình, cùng với sự cố gắng của bản thân, nhưng với kiến thức và trải nghiệm thực tế còn hạn chế, thông tin, tài liệu tham khảo còn giới hạn, nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, cũng như mức độ bao quát và chiều sâu chưa được nghiên cứu đề cập đến. Do vậy tác giả rất mong được sự hướng dẫn, chỉ bảo của thầy cô, các đóng góp của đồng nghiệp và những người có quan tâm, để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn các thầy cô là giảng viên chuyên ngành tại Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, các bạn bè đồng nghiệp đã cung cấp tài liệu, thông tin cho tác giả, đặc biệt là TS. Đào Thanh Bình đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NHTM
1.1. Tổng quan về NHTM và cạnh tranh của NHTM
1.1.1. NHTM và các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng từ lâu đã trở thành một khái niệm quen thuộc với đại bộ phận dân cư bởi sự tham gia sâu rộng của ngân hàng vào nền kinh tế quốc gia. Ngân hàng với lịch sử hình thành và phát triển lâu đời là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Theo quan điểm của giáo sư Peter S. Rose thuộc Đại học Texas A&M (Hoa Kỳ): “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”1.
Ngân hàng thương mại là một bộ phận không thể tách rời khỏi đời sống xã hội, là một sản phẩm đặc biệt của nền kinh tế thị trường. Sự ra đời của NHTM đã đánh dấu một bước nhảy vọt trong quá trình phát triển đi lên của nhân loại.
Tại Điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam cũng nêu rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Hợp tác xã và các loại hình ngân hàng khác”2.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với nhiều hoạt động đa dạng, có thể tổng hợp những hoạt động đó theo 3 nhóm hoạt động cơ bản, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính.
1.1.1.1. Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn tiền gửi không kì hạn: đây là nguồn vốn hình thành dựa trên nhu cầu giao dịch, khi khách hàng muốn sử dụng các dịch vụ tài chính của ngân hàng. Nguồn vốn này có quy mô rất lớn, luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong số nguồn vốn,
1 Quản trị Ngân hàng thương mại, Peter S. Rose tr. 7
2 Luật các Tổ chức tín dụng, NXB Tư pháp tr. 24
sự vận động lại phức tạp nên việc sử dụng rất mạo hiểm, cần phải thận trọng mới có phương pháp sử dụng hiệu quả.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định sẽ được gửi vào ngân hàng sau một thời gian nhất định để hưởng lãi suất tương ứng với kì hạn đó (luôn cao hơn đối với lãi suất tiền gửi thanh toán).
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời và an toàn.
Nguồn vốn chủ sở hữu: để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định và còn được bổ sung trong quá trình hoạt động. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác: đây thường là các nguồn không phải trả lãi, tuy nhiên chi
phi để có và duy trì chúng là rất đáng kể, ví dụ như nguồn uỷ thác...
1.1.1.2. Hoạt động sử dụng vốn
Các hoạt động về ngân quỹ:
Dự trữ bắt buộc: đây là khoản dự trữ mà ngân hàng Nhà nước yêu cầu các NHTM nộp vào tài khoản tại ngân hàng Nhà nước nhằm mục đích: hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho hoạt động của NHTM, vận hành chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý hoạt động NHTM.
Dự trữ vượt quá: là các khoản dự trữ tồn tại dưới dạng tiền mặt tại quỹ, các
khoản tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong quá trình thu.
Nhìn chung, ngân quỹ của NHTM là tài sản không sinh lời (hoặc sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác được hưởng lãi) song lại là tài khoản có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Do vậy, mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được.
Cho vay:
Cho vay là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác trong một thời gian, sau đó được quyền thu cả gốc lẫn lãi. Cho vay là khoản mục có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài sản của ngân hàng. Có rất nhiều loại hình cho vay khác
nhau đáp ứng nhu cầu của dân cư hay các doanh nghiệp.
Các hoạt động đầu tư:
Ngân hàng nhường quyền sở hữu cho người khác dưới hình thức hùn vốn, thu nhập căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ vốn góp. Có nhiều hình thức đầu tư: đầu tư vào chứng khoán, đầu tư vào các dự án, đầu tư dưới dạng liên doanh với nhau để hình thành các ngân hàng liên doanh.
Các hoạt động sử dụng vốn khác: quảng cáo, quảng bá, tài trợ cho sự phát
triển nguồn nhân lực, các chương trình phát triển.
1.1.1.3. Cung cấp dịch vụ tài chính trung gian
- Chuyển tiền: Ngân hàng làm theo lệnh của khách hàng chuyển trả tiền cho
một người nào đó.
- Thanh toán không dùng tiền mặt: Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các hình thức thanh toán ngày càng đa dạng: thanh toán bù trừ, sec, L/C, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, hối phiếu, thanh toán bằng thẻ...
- Cung cấp các dịch vụ tài chính:
+) Dịch vụ ủy thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính.
+) Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
+) Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho 1 khách hàng là rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác...
1.1.2. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.2.1.Nội dung cạnh tranh của các NHTM
Môi trường hoạt động kinh doanh của các NHTM có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do xuất phát từ những đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng và những ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng đối với nền kinh tế, cạnh tranh của NHTM có những đặc trưng riêng. Đó là:
Các NHTM vừa cạnh tranh gay gắt vừa hợp tác với nhau: Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong hoạt động của mình, các ngân hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị trường và thu hút khách hàng nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Tính chất gay gắt trong cạnh tranh ngân hàng xuất phát từ đặc thù của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là có tính tương đồng cao và rất dễ bị bắt chước. Mặt khác, trong cạnh tranh, các ngân hàng không chỉ sử dụng các công cụ mang tính truyền thống như phí, lãi suất, các dịch vụ ngân hàng,... mà còn sử dụng công nghệ hiện đại để đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, đưa ra các kênh phân phối mới và nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ, tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng...
Bên cạnh đó, do điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ có hạn trong khi nhu cầu, đòi hỏi về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng cao do đó các ngân hàng cũng phải liên kết với nhau để cùng cung cấp một hay một số sản phẩm, dịch vụ nhất định cho khách hàng. Vì vậy, để tránh đổ vì toàn hệ thống cũng như tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, các NHTM một mặt cạnh tranh với nhau, một mặt, lại hợp tác chặt chẽ với nhau trong cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.
Cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh, tránh khả năng xảy ra rủi ro hệ thống: Các NHTM phải cạnh tranh lành mạnh thông qua cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, đi vay để cho vay lại nếu các ngân hàng cạnh tranh không lành mạnh, hoặc cạnh tranh thông qua việc tăng lãi suất huy động tiền gửi, giảm lãi suất cho vay, phí dịch vụ, nới láng các điều kiện tín dụng... sẽ làm cho nguồn thu của các ngân hàng giảm sút, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro tín dụng tăng cao dẫn đến rủi ro hệ thống. Vì vậy, mặc dù cạnh tranh với nhau trong hoạt động, các NHTM vẫn liên kết với nhau, có thể thoả
thuận để giữ mặt bằng giá cả phù hợp, đảm bảo lợi ích chung.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng có tính lây lan rất lớn. Nếu một ngân hàng có nguy cơ phá sản, khách hàng đồng loạt đến rút tiền, gây tâm lý hoang mang cho khách hàng gửi tiền tại các NHTM khác. Điều này dễ dẫn đến khả năng đổ vì mang tính hệ thống mà tất cả các NHTM đều bị ảnh hưởng và tác động đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Cạnh tranh ngân hàng luôn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như môi trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư… Cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào, ngân hàng hoạt động và cạnh tranh với nhau trong những môi trường và điều kiện kinh tế nhất định. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu sự chi phối của luật pháp, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của những đối tượng khách hàng cụ thể:
- Khách hàng của ngân hàng là các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như sự cạnh tranh giữa các ngân hàng luôn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài ngân hàng. Với mỗi môi trường kinh doanh nhất định, điều kiện kinh tế nhất định, khu vực địa lý nhất định, ngân hàng cần có những chính sách phù hợp để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, giành ưu thế trong cạnh tranh.
- Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế, sự giao thoa về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Các ngân hàng tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài cũng như mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra thị trường các nước trên thế giới. Lộ trình hội nhập đòi hỏi các NHTM trong nước phải tuân thủ các quy định quốc tế về hoạt động ngân hàng và sự tác động của phía đối tác. Mỗi sự thay đổi của tỷ giá, lãi suất của các loại ngoại tệ liên quan, điều kiện kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của các nước… đều ảnh hưởng và tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nước. Do vậy, trong cạnh tranh, các ngân hàng cũng phải có những chính sách thích hợp để đối phó với những biến động của thị trường tài chính quốc tế.
Những công cụ cạnh tranh của NHTM
NHTM thực chất là một doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương
mại là một tất yếu. Cạnh tranh giữa các NHTM thể hiện ở những khía cạnh như sau:
Gia tăng các sản phẩm dịch vụ mới tiện ích: Các sản phẩm dịch vụ, nhất là
dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sự cạnh tranh giữa
các ngân hàng ngày một quyết liệt hơn đóng vai trò tích cực hơn trong nền kinh tế.
Cạnh tranh mạnh mẽ và sôi động nhất là phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại trong dân cư và cung cấp cho các doanh nghiệp. Các NHTM đầu tư cho hiện đại hoá công nghệ, đẩy mạnh tiếp thị, khuyến mại, cạnh tranh mở rộng phạm vi phát hành và thanh toán các loại thẻ, bao gồm cả các loại thẻ tín dụng quốc tế, thẻ tín dụng nội địa, thẻ rút tiền mặt, nhất là những người có thu nhập khá, doanh nghiệp có đông người lao động, giới trẻ. Cũng với xu hướng đa dạng dịch vụ mới, các NHTM cạnh tranh mở ra dịch vụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, lãi suất, giá hàng xuất khẩu bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng.
Cải tiến hiện đại hóa công nghệ ngân hàng: Thị trường công nghệ ngân hàng đang hứa hẹn rộng mở và phát triển mạnh trong thời gian tới khi các ngân hàng trong nước đẩy mạnh phát triển các dịch vụ trên nền tảng đổi mới công nghệ, nhằm tăng cường cạnh tranh, chuẩn bị cho hội nhập. Các NHTM đã không ngần ngại bỏ ra hàng triệu đôla mua phần mềm của nước ngoài với các công nghệ mới để tăng sức cạnh tranh. Với thế mạnh vượt trội của các loại công nghệ sẽ tăng khả năng cung cấp các dịch vụ tiện ích cho người dân.
Nâng cao năng lực tài chính: Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện rõ và quan trọng nhất ở quy mô vốn chủ sở hữu hay còn được gọi là vốn tự có. Vốn tự có là yếu tố quyết định sức mạnh tài chính của một NHTM, là “tấm nệm chống đỡ rủi ro“. Các NHTM đang chạy đua và tìm mọi cách để tăng vốn tự có nhằm phát triển các nguồn vốn huy động khác và bảo vệ các NHTM trước những rủi ro, các chủ nợ (người gửi tiền).
1.2.Các tiêu chí và phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Theo P. Samuelson thì cạnh tranh là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần. Một ngành có năng lực cạnh tranh nếu có năng lực duy trì được lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước. Và năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra những sản phẩm và chất lượng dịch vụ đáp ứng được thị hiếu của khách hàng trong môi trường cạnh tranh nhằm duy trì và phát triển những lợi thế và mở rộng thị phần, đạt được lợi nhuận cao nhất. Khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ được