tiên phải làm là công tác đào tạo và làm thay đổi nhận thức của nhân viên, kế đến là phải rà soát lại và hoàn chỉnh nội quy lao động, nội quy cơ quan một cách cụ thể, có chế độ thưởng phạt thỏa đáng. Tiếp theo là hoàn chỉnh lại quy trình nghiệp vụ có sự cập nhật những thay đổi về mô hình, công nghệ, sản phẩm mới một cách đầy đủ, thực hiện nghiêm chỉnh về quy chế khách hàng và giao tiếp khách hàng.
3.3. KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
3.3.1.1. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật
Nhiệm vụ đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tài chính, ngân hàng là một nhiệm vụ trọng tâm mà ngành đã đề ra trong kế hoạch và chương trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là điều kiện cốt yếu bảo đảm cho các ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả. Đồng thời, việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách pháp luật về tài chính, ngân hàng cũng là để thực hiện cam kết quốc tế với các tổ chức, liên minh kinh tế trong khu vực và trên thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực này. Các kiến nghị cụ thể về vấn đề này như sau:
- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các TCTD và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Cụ thể là:
Luật các TCTD hiện nay hầu như chỉ đề cập đến vấn đề nghiệp vụ. Cơ sở pháp lý cho việc quản lý và tổ chức ngân hàng được căn cứ vào Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của các NHTM. Qua 13 năm, Nghị định này chưa có sự thay đổi nào để theo kịp với sự phát triển của hệ thống ngân hàng như ngày nay. Trong quá trình cổ phần hoá các NHTM Nhà nước, việc quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu, quản lý và sử dụng vốn điều lệ, điều hành tổ chức hoạt động của TCTD là rất cần thiết. Các cơ quan soạn thảo ban hành Luật cần xem xét tích hợp đầy đủ các quy định về quản trị và tổ chức ngân hàng, ban hành các văn bản dưới luật
Có thể bạn quan tâm!
- Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Điều Kiện Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Nhóm Giải Pháp Phát Triển Hạ Tầng Công Nghệ Thông Tin
- Xây Dựng Thương Hiệu Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Tiến Trình Hội Nhập
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 21
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 22
Xem toàn bộ 181 trang tài liệu này.
có hướng dẫn cụ thể làm căn cứ pháp lý cho hoạt động của các NHTM trong
điều kiện mới.
Luật cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 01/07/2005 và Luật các TCTD năm 2010 cũng có quy định về cạnh tranh của các TCTD. Hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng chủ yếu tập trung ở hai khía cạnh: lãi suất và cung ứng các dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn riêng về vấn đề cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Việc xây dựng văn bản pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cần quán triệt các quan điểm sau:
- Đảm bảo quyền tự do kinh doanh, bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với các chủ thể tham gia hoạt động ngân hàng.
- Nhà nước bảo hộ hoạt động cạnh tranh hợp pháp, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh.
- Kiểm soát độc quyền có hiệu quả.
- Bảo đảm an toàn hoạt động và an toàn hệ thống ngân hàng.
Hệ thống các văn bản liên quan đến phá sản doanh nghiệp, thu hồi nợ và các biện pháp xử lý tài sản thế chấp cũng cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn nhằm đảm bảo sự công khai, minh bạch, nhất quán và đơn giản hơn trong quá trình xử lý tài sản thế chấp và thu hồi nợ của các ngân hàng.
- Xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung các quy định pháp luật ngân hàng về cấp phép hiện diện thương mại, về tổ chức, hoạt động, quản trị, điều hành của các TCTD kể cả trong và ngoài nước, hướng tới nguyên tắc không phân biệt đối xử, phù hợp với các cam kết và lộ trình gia nhập WTO, các quy định pháp luật cần tuân thủ theo nguyên tắc minh bạch hoá và có thể dự báo. Ngân hàng Nhà nước hiện đang dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 22 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện TCTD nước ngoài tại Việt Nam, Nghị định về việc TCTD nước ngoài mua cổ phần của NHTM Việt Nam. Để đảm bảo an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ đưa vào áp dụng Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng.
- Chế độ hạch toán, kế toán và các quy định liên quan đến việc công khai hoá thông tin cũng cần phải được hoàn thiện theo tiêu chuẩn quốc tế để giải quyết sự khác biệt trong phân loại nợ và đánh giá thực trạng tài chính của các NHTM Việt Nam theo chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế với chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam.
- Rà soát lại danh mục các dịch vụ tài chính - ngân hàng theo Phụ lục về dịch vụ tài chính - ngân hàng của GATS để xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định, đảm bảo các TCTD được thực hiện đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng theo GATS và thông lệ quốc tế.
- Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý cho các mô hình TCTD mới, các tổ chức có hoạt động mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động của các TCTD (công ty xếp hạng tín dụng, công ty môi giới tiền tệ) nhằm phát triển hệ thống các TCTD.
- Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối, hoàn thiện các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt thuộc Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020.
- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng mới (quản lý danh mục đầu tư, các sản phẩm phái sinh, dịch vụ ngân hàng điện tử…).
3.3.1.2. Nâng cao hiệu quả công tác định hướng dự báo
Nâng cao hiệu quả công tác định hướng dự báo biến động môi trường quốc tế và trong nước, từ đó ban hành các chính sách mang tính dài hạn, ổn định. Trong năm 2013, tình hình kinh tế vĩ mô của nước ta đã được cải thiện đáng kể: kiềm chế được lạm phát, thanh khoản của hệ thống ngân hàng tốt lên, áp lực cán cân thanh toán quốc tế giảm bớt, áp lực lên thị trường ngoại hối cũng dịu đi rất nhiều. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn còn những diễn biến phức tạp, rủi ro phía trước vẫn còn nhiều. Trước tình hình trên, giải pháp điều hành chính sách kinh tế vĩ mô cần tiến hành:
Một là, cần bán sát, theo dõi tình hình, động thái cả bên ngoài và bên trong, nâng cao hiệu quả công tác định hướng dự báo biến động môi trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở đó ban hành các chính sách mang tính dài hạn, ổn
định, tạo môi trường và điều kiện ổn định cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế hoạt động. Bên cạnh đó, hiện nay, tình hình biến động rất nhanh, phải cập nhật thông tin đầy đủ, dự báo, xem xét và nhận dạng đúng tình hình để điều hành linh hoạt chính sách.
Hai là, phải lựa chọn chính sách mục tiêu. Lựa chọn khôn ngoan không phải là cố đạt tăng trưởng cao bằng mọi giá mà là mức tăng trưởng phải duy trì được công ăn việc làm, tạo thu nhập, giảm bớt áp lực xã hội. Chính sách thích hợp trước mắt là điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng nới lỏng một cách thận trọng vì nó liên quan đến chính sách lãi suất, tỷ giá, các công cụ tiền tệ.
3.3.1.3. Tiếp tục thực hiện cải cách hệ thống ngân hàng
Tiếp tục thực hiện cải cách hệ thống NHTM Nhà nước, tạo môi trường hoạt động kinh doanh minh bạch, lành mạnh, bình đẳng hơn cho hệ thống NHTM Việt Nam.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay một cách thực sự vững chắc, lâu dài, Chính phủ cần áp dụng các biện pháp, chính sách để tạo ra môi trường hoạt động kinh doanh thực sự bình đẳng, công bằng, lành mạnh và minh bạch cho toàn hệ thống NHTM Việt Nam. Khi đó, áp lực cạnh tranh giữa các NHTM trong nước với nhau cũng như giữa các NHTM trong nước với các NHTM nước ngoài sẽ tạo động lực đổi mới mạnh mẽ về mọi mặt cho các NHTM Việt Nam. Đồng thời, việc tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng cũng chính nhằm thực hiện các cam kết theo nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc mở cửa thị trường trong khuôn khổ các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đối với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Để thực hiện thành công mục tiêu này, song song với việc nới lỏng dần các quy định hạn chế mang tính chất hành chính cho phù hợp với các cam kết quốc tế trước hết là đối với các NHTM trong nước và đặc biệt là các NHTM nước ngoài. Chẳng hạn như, các quy định về số vốn điều lệ, tỷ lệ góp vốn tối đa của bên nước ngoài vào một ngân hàng trong nước, số lượng và phạm vi chi
nhánh, phòng giao dịch được mở, giới hạn về tỷ lệ huy động vốn bằng VNĐ so với số vốn điều lệ… Việc xoá bỏ bảo hộ, bao cấp và các quy định hạn chế như vậy cần phải gắn với lộ trình và nội dung hội nhập của ngành ngân hàng theo các cam kết khu vực và quốc tế. Cụ thể, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần bãi bỏ cơ chế ưu đãi về thuế sử dụng vốn đối với các NHTM Nhà nước, tiến tới bãi bỏ tất cả các quy định có tính chất ưu đãi và có lợi cho các NHTM Nhà nước, NHTM trong nước hơn NHTM nước ngoài vì điều này vi phạm nguyên tắc của WTO và các liên minh thương mại, tài chính, ngân hàng khu vực và quốc tế khác mà Việt Nam có cam kết.
Đối với toàn hệ thống NHTM, các quy định, can thiệp hành chính đối với tất cả các ngân hàng về các biện pháp điều hành tỷ giá, lãi suất cũng cần được xem xét bãi bỏ trong tương lai xa hơn, khi mà nền kinh tế Việt Nam đã thực sự có được một cơ chế thị trường đồng bộ.
3.3.1.4. Duy trì sự phát triển ổn định của thị trường
Duy trì sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Hoạt động ngân hàng liên quan đến hầu hết các ngành trong nền kinh tế quốc dân, trong đó gần gũi nhất là thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Trình độ phát triển của các thị trường liên quan trên có tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngành ngân hàng. Nếu các thị trường liên quan phát triển sẽ vừa tạo áp lực buộc ngân hàng phát triển, vừa tạo ra cơ hội hợp tác, nghiên cứu triển khai các sản phẩm, dịch vụ mới, nhờ đó các bên cùng có lợi và cùng nhau phát triển, đồng thời tạo ra các kênh huy động và đầu tư mới cho ngân hàng, tạo điều kiện đa dạng hoá danh mục đầu tư, giảm bớt những rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, giảm thiểu chi phí giao dịch, làm khác biệt hoá sản phẩm, dịch vụ của mỗi ngân hàng. Do đó, Nhà nước cần duy trì sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản vì hai thị trường này có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Nếu thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản tăng quá nóng sẽ tạo ra rủi ro cho ngân hàng giống như cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất đã xảy ra tại nước Mỹ trong năm 2008.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3.3.2.1. Nâng cao năng lực quản lý vĩ mô và vai trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước
Nâng cao năng lực quản lý vĩ mô và vai trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Trong mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp hiện đại như hiện nay, Ngân hàng Nhà nước cần phải phát huy tối đa chức năng quản lý vĩ mô và vai trò giám sát, là “ngân hàng của các ngân hàng” trên lãnh thổ Việt Nam. Để thực hiện tốt chức năng, vai trò đó, Quốc hội và Chính phủ cần tăng cường quyền lực cho Ngân hàng Nhà nước trong việc điều chỉnh các chính sách tài chính tiền tệ và các hoạt động giám sát ngân hàng cũng như thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại của Nhà nước về ngân hàng. Hiện nay, ngoài Ngân hàng Nhà nước, có rất nhiều cơ quan cũng tham gia vào việc quản lý, giám sát hoạt động của các ngân hàng như Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố (tham gia vào việc cấp giấy phép và giám sát hoạt động của các NHTM trên địa bàn). Điều này dẫn đến sự chồng chéo trong công tác quản lý và làm giảm hiệu lực, hiệu quả các chính sách của Ngân hàng Nhà nước, ảnh hưởng đến vai trò độc lập của ngân hàng trung ương.
Bên cạnh đó, bản thân Ngân hàng Nhà nước phải nâng cao trình độ nguồn nhân lực và tiến hành cải cách mô hình tổ chức hoạt động theo cơ chế mới. Các công cụ và phương pháp quản lý của Ngân hàng Nhà nước cũng phải được đổi mới để đảm bảo hiệu quả cao hơn. Ngân hàng Nhà nước cần linh hoạt trong quản lý hoạt động của các NHTM nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ. Mặc dù thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã có những điều chỉnh nhất định trong việc giãn biên độ giao động tỷ giá của các NHTM song mức biến động này vẫn còn chưa sát với thực tế và nhu cầu kinh doanh trên thị trường. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách điều hành tỷ giá hợp lý nhằm tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước cũng nên xem xét đẩy mạnh tiến độ hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, nhất là hệ thống thanh toán qua ngân hàng, đảm bảo nhanh chóng, kịp thời, chính xác.
Hiện nay, hoạt động thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước vẫn
được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc kiểm tra tính tuân thủ các quy định hiện
hành mà chưa tập trung phân tích, đánh giá các rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của các ngân hàng. Để tăng cường khả năng phát hiện và ngăn ngừa rủi ro tiềm tàng, Ngân hàng Nhà nước có thể nghiên cứu và áp dụng các phương pháp, công cụ giám sát ngân hàng hiện đại hiện nay trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc giám sát của Uỷ ban giám sát ngân hàng Basel như Hệ thống giám sát ngân hàng Camels, Seer và Scor của Hoa Kỳ, Rate và Tram của Anh, Orap và Saaba của Pháp… Tham gia các hiệp ước, thoả thuận quốc tế về thanh tra, giám sát ngân hàng và an toàn hệ thống tài chính.
3.3.2.2. Xây dựng chính sách tiền tệ quốc gia có tính ổn định lâu dài
Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách về tái cấp vốn nhằm tăng vốn khả dụng, góp phần ổn định cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Chính sách này bao gồm việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ, hoàn thiện quy trình tái cấp vốn.
Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao hoạt động của thị trường mở, đa dạng hoá các công cụ và chứng từ có giá tham gia vào thị trường.
Thúc đẩy quá trình tự do hoá lãi suất. Lãi suất do thị trường điều tiết. Công cụ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước cần được phát huy một cách hiệu quả thay vì áp dụng các biện pháp hành chính.
Cùng với sự cải cách hệ thống tài chính, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu kỹ lưỡng tác động của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế để đưa ra các chính sách có tính ổn định, lâu dài, tạo điều kiện cho thị trường tài chính phát triển bền vững.
3.3.2.3. Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng CNTT và thị trường tài chính, tiền tệ
Hạ tầng CNTT có vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế. Hiện nay, CNTT ở Việt Nam là một trong những ngành có tốc độ phát triển cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Đây là một thuận lợi cho quá trình hiện đại hoá ngành ngân hàng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển hoàn thiện, đồng bộ cơ sở CNTT không những góp phần tăng cường năng lực công nghệ cho các ngân hàng mà còn cho phép các ngân hàng triển khai các sản phẩm, dịch vụ
mới trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại, góp phần đa dạng hoá danh mục sản phẩm dịch vụ và tăng hiệu quả quản lý, hiệu qủa hoạt động của các NHTM Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, ngoài việc cải cách và phát triển hệ thống NHTM cho phù hợp với yêu cầu của hội nhập, thị trường tài chính, tiền tệ cũng phải được xây dựng và phát triển một cách đồng bộ, trong đó cần đặc biệt chú trọng đến sự phát triển của thị trường giao dịch nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm tiền gửi. Thực tế phát triển hệ thống NHTM ở nhiều nước trên thế giới đã cho thấy một nền kinh tế và hệ thống NHTM chỉ có thể phát triển vững chắc và phát huy mọi hiệu quả trên cơ sở đổi mới cân đối, đồng bộ cả hệ thống NHTM và thị trường tài chính tiền tệ. Sự phát triển đồng bộ của thị trường tài chính tiền tệ một mặt tạo ra sự cạnh tranh đối với các ngân hàng trong việc thu hút và phân bổ các nguồn vốn trong xã hội, từ đó tạo ra động lực thúc đẩy sự đổi mới của các ngân hàng, mặt khác nó cũng tạo ra cho các ngân hàng những cơ hội để đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, cung cấp các công cụ đa dạng cho phép các ngân hàng linh hoạt hơn trong việc điều tiết các nguồn vốn, nâng cao tính thanh khoản và tăng cường khả năng chống đỡ trước những diễn biến bất lợi của thị trường.
Kết luận chương 3
Tất cả các giải pháp và kiến nghị trên nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam một cách tổng thể. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ khác nhau, tuỳ từng giai đoạn phát triển, từng hệ thống NHTM cụ thể và điều kiện cụ thể để có những bước đi cho phù hợp và phát huy tốt nhất hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình. Để tăng cường năng lực cạnh tranh, đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải thực hiện một cách đồng bộ hệ thống các giải pháp, đồng thời Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cũng phải hỗ trợ tối đa, tạo ra môi trường thuận lợi giúp NHTM Việt Nam đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình hoạt động.