Nhóm Nhân Tố Thuộc Về Khách Hàng Doanh Nghiệp Công Nghiệp Hỗ Trợ

21


Việc xây dựng tốt quy trình kiểm soát rủi ro tín dụng kết hợp với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao sẽ giúp nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng.

Hệ thống thông tin khách hàng doanh nghiệp CNHT

Ngân hàng có thể cải thiện các dịch vụ đang cung cấp trên thị trường bằng việc sử dụng tốt hơn các thông tin quan trọng về khách hàng mà các ngân hàng có được. Nhiều ngân hàng đã sử dụng hiệu quả nguồn thông tin này như một cơ sở dữ liệu để đánh giá chất lượng khách hàng khi thẩm định hồ sơ tín dụng và đây cũng là nguồn thông tin để ngân hàng tiếp thị hiệu quả, tạo ra một lợi thế cạnh tranh cực kỳ lớn. Cứ trong chu kỳ khoảng 1 đến 3 năm, hệ thống thông tin cần được phát triển, làm sạch, chọn lọc và gia tăng. Không nhà cung cấp dịch vụ tài chính nào có thể trở nên vượt trội hơn hẳn các đối thủ nếu họ không có khả năng thực hiện các chính sách trên.

Trang thiết bị công nghệ ngân hàng phục vụ hoạt động cho vay

Để hoạt động tín dụng có hiệu quả, song song với việc xây chính sách, quy trình tín dụng, quy trình kiểm soát rủi ro tín dụng, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao thì việc ứng dụng thiết bị và công nghệ hiện đại vào hoạt động tín dụng cũng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hồ sơ tín dụng được thẩm định và phê duyệt hiệu quả hơn, chính xác hơn và nhanh hơn. Công tác kiểm soát rủi ro tín dụng cũng sẽ được tốt hơn do được hệ thống công nghệ luôn cập nhật thông tin, phân tích và đưa ra cảnh báo kịp thời.

Kiểm tra và kiểm soát nội bộ ngân hàng

Kiểm tra và kiểm soát nội bộ giúp ngân hàng có thể kịp thời phát hiện và xử lý những sai sót chủ quan và khách quan trong hoạt động kinh doanh. Trong lĩnh vực tín dụng, hoạt động kiểm soát bao gồm: Kiểm soát chính sách tín dụng, quy trình tín dụng… Để kiểm soát nội bộ hiệu quả, ngân hàng cần phải có cơ cấu tổ chức hợp lý, cán bộ kiểm tra phải giỏi nghiệp vụ, có hệ thống công nghệ phần mềm hỗ trợ hiệu quả.

2.2.4.2. Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.


Đạo đức của khách hàng

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 5

Khi khách hàng cố tình vi phạm các cam kết với ngân hàng, dẫn đến nguyên tắc tín nhiệm trong quan hệ tín dụng sẽ bị phá bỏ nếu đạo đức của khách hàng và các ràng buộc

22


chưa được ngân hàng quan tâm đúng mức dẫn đến việc phát sinh các khoản nợ xấu cho ngân hàng.

Năng lực tài chính của khách hàng

Khi doanh nghiệp CNHT muốn vay vốn, ngân hàng sẽ dựa trên nhiều chỉ tiêu để đánh giá mức tín nhiệm của ngân hàng đối với doanh nghiệp CNHT. Doanh nghiệp CNHT có năng lực tài chính lớn sẽ dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng. Vì đây là khả năng đảm bảo các rủi ro khi ngân hàng thực hiện cấp tín dụng. Năng lực tài chính của doanh nghiệp CNHT được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: Vốn, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn.

Phương án kinh doanh của khách hàng

Bản chất của kinh doanh luôn ẩn chứa các rủi ro do môi trường bên trong hay môi trường bên ngoài. Khi các phương án kinh doanh được ngân hàng tài trợ gặp khó khăn thì khả năng trả nợ ngân hàng bị ảnh hưởng. Khó khăn tạm thời về dòng tiền của khách hàng làm chậm trễ kỳ thanh toán sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh và khả năng thanh khoản của ngân hàng. Nghiêm trọng hơn nữa là khi hoạt động kinh doanh của khác hàng bị thu lỗ, mất vốn, khách hàng không trả được nợ gây ra các khoản nợ khó đòi của ngân hàng.

Năng lực và kinh nghiệm quản lý điều hành của khách hàng

Một trong những tiêu chí mà ngân hàng quan tâm để thẩm định và đánh giá khách hàng là năng lực và kinh nghiệm quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp/khách hàng. Bởi đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của phương án kinh doanh đang được xem xét cho vay và cũng như sự ổn định trong hoạt đọng sảng xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp/khách hàng.

.


Đổi mới và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh của DN CNHT

Việc áp dụng thành tựu mới của khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh thường mang lại hiệu quả cao và khả thi đối với các phương án kinh doanh. Ứng dụng KHCN giúp doanh nghiệp có điều kiện để tạo ra những sản phẩm mới, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả của sản phẩm. Qua đó gia tăng tính cạnh tranh và hiệu quả trong kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp luôn cần một nguồn

23


lực tài chính không nhỏ cho quá trình chuyển đổi và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh.

2.2.4.3. Nhóm nhân tố khác


Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ

Trên cơ sở lựa chọn quan điểm phát triển, Chính phủ sẽ quyết định các chính sách phát triển CNHT như: Chính sách nội địa hoá; chính sách thuế đánh vào nhập khẩu và sản xuất các bán sản phẩm, linh phụ kiện; mức độ đầu tư của Nhà Nước vào nghiên cứu khoa học và công nghệ ở khu vực CNHT; các luật, các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật được ban hành cho các ngành, các loại sản phẩm thuộc CNHT... Các chính sách về vốn cho phát triển CNHT ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp CNHT.

Sự phát triển của các cụm liên kết ngành

Các doanh nghiệp trong một cụm có thể tạo nên chuỗi giá trị của sản phẩm, từ khâu cung cấp nguyên liệu cho đến việc đem sản phẩm tới người tiêu dùng. Do đó, một cụm liên kết ngành không chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất, mà cũng bao gồm cả các nhà cung cấp nguyên liệu thô, các nhà thầu phụ, người mua, người xuất khẩu, các nhà cung cấp máy móc . Bên cạnh đó còn bao gồm rất nhiều tổ chức hỗ trợ cho việc phát triển các cụm liên kết ngành như các hiệp hội nghề nghiệp, các nhà cung cấp các dịch vụ khác liên quan, các cơ quan Nhà nước...

Cụm liên kết ngành tạo ra sự thay đổi về quy mô sản xuất, khi các doanh nghiệp tham gia và cụm, họ đã liên kết với nhau làm thành mạng lưới, các doanh nghiệp tập trung thành cụm sẽ dễ dàng thu hút khách hàng và các nhà cung ứng, cụm liên kết ngành cũng giúp cho doanh nghiệp có thể tăng năng suất khi chia sẻ kinh nghiệm về kỹ thuật, công nghệ, về tổ chức quản lý sản xuất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp CNHT cũng có thể giảm chi phí đầu vào khi chia sẻ các đơn hàng nguyên phụ liệu, giảm thiểu tối đa các chi phí do thiếu thông tin hoặc bị ép giá.

Cụm liên kết ngành còn giúp doanh nghiệp đa dạng hoá sản phẩm, cải thiện năng lực kỹ thuật, nhân lực, tăng cường tiếp cận thị trường, tạo khả năng tiếp xúc với các khách hàng lớn. Khi doanh nghiệp có sự liên kết ngành sẽ tạo sự an tâm cho các ngân hàng khi

24


cho vay vốn và đặc biệt là tạo được vòng luân chuyển vốn trong doanh nghiệp được vững chắc hơn.

Sự phát triển của tập đoàn đa quốc gia

Ngày nay Tập đoàn đa quốc gia chủ yếu là công ty đặt tại một quốc gia với các đối tác nước ngoài. Xu hướng của các Tập đoàn đa quốc gia là thiết lập các chiến lược kinh doanh dựa vào việc tận dụng các lợi thế cạnh tranh và sự khác biệt trên thị trường của từng khu vực, từng quốc gia.

Điểm đặc biệt là, các TĐĐQG tiêu chuẩn hóa hoạt động trên khắp thế giới trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh, nhưng lại đáp ứng được khác biệt của thị trường từng quốc gia khi cần thiết. Điều này được xây dựng thông qua các liên minh, các hiệp định về kỹ thuật, các thoả thuận về marketing, việc hợp tác nghiên cứu, các chương trình phát triển hợp tác quản lý...

Việc tham gia vào TĐĐQG của các doanh nghiệp CNHT Việt Nam sẽ tạo sự vững chắc cho doanh nghiệp CNHT trong việc lắp ráp sản phẩm cuối cùng và có cả các TĐĐQG chuyên cung ứng linh kiện, phụ tùng và không mất nhiều thời gian tìm kiếm nhà cung cấp ở thị trường mới. Khi một doanh nghiệp CNHT tham gia vào TĐĐQG sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo được uy tín lớn trong nước và nước ngoài, chính vì vậy mà khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng cũng như khả năng tín dụng được đảm bảo, ngân hàng giảm rủi ro tín dụng đối với khách hàng có tham gia vào mạng lưới TĐĐQG.

2.2.5. Kinh nghiệm nước ngoài về nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngành Công nghiệp hỗ trợ tại các ngân hàng thương mại và bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại Việt Nam

2.2.5.1. Kinh nghiệm nước ngoài về nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngành công nghiệp hỗ trợ tại các ngân hàng thương mại

Kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại ở Thái Lan (Lê Xuân Sang và Cộng sự, 2011), [25]

Các NHTM ở Thái Lan thực hiện cho vay đối với doanh nghiệp CNHT và cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ phi tín dụng cho doanh nghiệp CNHT để khách hàng có thể lựa chọn hình thức phù hợp nhất.

25


Việc tiếp cận khách hàng doanh nghiệp CNHT của ngân hàng được thực hiện thông qua các tổ, nhóm với quy định chặt chẽ dành chung cho cả tổ, nhóm. Theo đó trách nhiệm cá nhân được gắn với trách nhiệm tập thể và góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng ưu đãi. Ngân hàng cho vay với lãi suất thị trường, tuy nhiên kết hợp với chất lượng phục vụ chu đáo, tận tình nên luôn đảm bảo được tính bền vững và giảm sự bao cấp của Nhà nước.

Bên cạnh đó, một điểm thành công của NHTM Thái Lan là việc ngân hàng đã gắn kết việc cho vay với các doanh nghiệp CNHT có chuỗi liên kết trong nước và nước ngoài. Từ đó, việc sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn hiệu quả hơn.

Ủy ban đầu tư (BOI) chịu trách nhiệm phê duyệt và cấp ưu đãi đầu tư, đưa ra hai loại ưu đãi: ưu đãi thuế và ưu đãi phi thuế dựa trên hệ thống phân vùng. Ưu đãi thuế bao gồm miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu máy móc và nguyên liệu thô cũng như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Các ưu đãi phi thuế bao gồm cho phép thuê công nhân nước ngoài, sở hữu đất và mang hoặc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.

Phê duyệt dự án không được cấp tự động mà phải do Văn phòng BOI hoặc đích thân BOI xem xét, cân nhắc tùy theo vốn đầu tư và một số tiêu chí khác. Điều đáng lưu ý là cấp cao hơn sẽ ra quyết định đối với dự án lớn hướng vào thị trường trong nước mà không phải là thị trường xuất khẩu. Việc phê duyệt dự án đầu tư và cấp ưu đãi ở Thái Lan do BOI quản lý tập trung.

Quyền phê duyệt các dự án và cấp các ưu đãi không được trao cho chính quyền địa phương để ngăn chặn việc cạnh tranh quá mức giữa các địa phương và tổn thất doanh thu từ thuế không đáng có. Việc đối xử ưu đãi đối với các khu vực kém phát triển hơn cũng được quản lý tập trung thông qua hệ thống phân vùng.

Ở Thái Lan có 4 tổ chức tài chính dành cho SME trong CNHT, bao gồm: Ngân hàng Phát triển SME Thái Lan (Ngân hàng SME), Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác xã nông nghiệp (Ngân hàng phát triển nông thôn), Ngân hàng Tiết kiệm Trung ương (Ngân hàng nhân dân), và Ngân hàng xuất-nhập khẩu Thái Lan (Ngân hàng xuất khẩu).

Hoạt động đào tạo và tư vấn về công nghệ và quản lý do MOI giám sát không liên quan chặt chẽ với vấn đề tài chính cho SME.

26


Một trong những sản phẩm mới mang tính sáng tạo của ngân hàng SME là gói tín dụng OTOP (mỗi làng một sản phẩm) nhằm hỗ trợ và khuyến khích nhóm cá nhân phát triển một loại hình kinh doanh tại một làng cụ thể. Tổng ngân sách cho gói tín dụng OTOP là 5 tỷ Bạt ( khoảng 150 triệu USD) với mức tín dụng cá nhân tối đa là 1 triệu Bạt (khoảng 30.000USD). Một sản phẩm có tính sáng tạo khác nữa là Chương trình Vốn hóa tài sản (Asset Capitalization Program) nhằm xem xét sử dụng tài sản hữu hình hay vô hình của những người có thu nhập thấp như quyền thuê đất công cộng, phương tiện sản xuất và quyền sở hữu trí tuệ làm tài sản thế chấp để vay tín dụng.

Trong từng trường hợp cụ thể, các tài sản thế chấp như quyền thuê đất để mở cửa hàng nhỏ, máy móc, bằng sáng chế, thương hiệu, quyền tác giả sẽ được đăng ký và lưu giữ. Khoản tín dụng này có thể sử dụng để khởi sự kinh doanh hay dùng làm vốn luân chuyển.

Kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại ở Trung Quốc (APO,2018), [71]


Trung Quốc là một nước có sự phát triển mạnh về ngành CNHT và đặc biệt là sự phát triển của ngành công nghiệp xe năng lượng mới và các NHTM ở Trung quốc đã thực hiện chương trình tín dụng kép cho ngành CNHT vào năm 2017.

Chương trình tín dụng kép của các NHTM đã được ứng dụng vào ngành công nghiệp ô tô ở Trung Quốc. Chương trình tín dụng kép thực sự là một giải pháp chính sách hiệu quả cho phép mở rộng khối lượng thị trường xe sử dụng năng lượng mới. (ii) Chương trình tín dụng kép có thể đẩy nhanh việc loại bỏ các công nghệ lỗi thời với số dặm lái xe thấp hơn và nó cũng có thể thúc đẩy việc áp dụng các công nghệ với số dặm dài hơn. (iii) Chương trình tín dụng kép cho phép tất cả các nhà sản xuất ô tô đạt được mục tiêu của họ một cách hiệu quả trên thị trường.

Các NHTM Trung Quốc đã thực hiện kinh doanh thẻ tín dụng trong ngành năng lượng. Để nắm bắt được thông tin của doanh nghiệp CNHT, các NHTM Trung Quốc đã thực hiện thông qua kênh thẻ tín dụng cho các khách hàng là người lao động trong ngành CNHT tại Trung Quốc, do đó rủi ro tín dụng dần được tiết lộ và đặt nền tảng cho quản lý rủi ro tín dụng toàn diện. Các tính năng của thẻ tín dụng như tỷ lệ thấu chi và số chi phí thẻ tín dụng trong vòng một tháng có tác động đáng kể đến rủi ro tín dụng, độ chính xác dự đoán toàn diện cao tới 91,5%. Những phát hiện này có thể cung cấp thông tin có giá trị để giúp các ngân hàng cải thiện quản lý rủi ro tín dụng.

Kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại ở Nhật Bản (APO,2018), [ 71]

27


Năm 1956, Nhật Bản đã có Luật xúc tiến công nghiệp chế tạo máy, xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ ngành CNHT; Sau đó, chính sách hỗ trợ ngành CNHT còn được thể hiện trong Luật Phòng chống trì hoãn thanh toán chi phí thầu phụ và Luật Xúc tiến doanh nghiệp thầu phụ nhỏ và vừa (năm 1970).

Nhật Bản đã nhanh chóng xây dựng các chính sách công nghiệp hỗ trợ, kịp thời đáp ứng những biến đổi trong môi trường kinh doanh, tạo sự cân bằng lợi ích giữa DNNVV và doanh nghiệp lớn. Hiện nay, để phát triển CNHT, Nhật Bản xây dựng chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, khai thác lợi thế khi mua các phụ tùng giá rẻ của nước ngoài. Bên cạnh đó, Nhật Bản còn duy trì và tăng cường lợi thế về công nghệ để phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thâm nhập thị trường quốc tế.

Năm 1963, Nhật Bản ban hành Luật các Công ty Xúc tiến đầu tiến phục vụDNNVV. Năm 1996, thành lập “Quỹ Đầu tư mạo hiểm” để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh mạo hiểm phát hành trái phiếu; thành lập sàn giao dịch thứ cấp độc lập với sàn giao dịch sơ cấp... để tạo điều kiện tốt hơn cho các DNNVV huy động vốn. Song song đó, Nhật Bản đã cải thiện các chính sách trợ cấp tài chính và chính sách cho vay ưu đãi; Thực hiện tài trợ trực tiếp cho đầu tư đổi mới công nghệ để khuyến khích các DNNVV áp dụng những công nghệ mới; Cấp những khoản vay với lãi suất thấp thông qua các ngân hàng phục vụ chính sách cho nhu cầu về vốn của doanh nghiệp.

Trường hợp các DNNVV bị yếu thế trong cạnh tranh, Chính phủ Nhật bảo hộ bằng cách cho vay trực tiếp với lãi suất thấp và dài hạn. Về hỗ trợ tài chính cho các DNNVV, Nhật Bản xây dựng đa dạng các loại hình tổ chức tài chính quốc doanh phục vụ, cung cấp vốn cho sự phát triển của các DNNVV, đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp trong đầu tư đổi mới công nghệ.

Các NHTM ở Nhật Bản thực hiện cấp nguồn vốn cho các doanh nghiệp CNHT chủ yếu thông qua các chính sách ưu đãi về lãi suất và thời hạn cho vay theo các Chính sách về nguồn vốn của Chính phủ. Và các món vay từ NHTM được sự bảo hộ của Chính phủ nếu có rủi ro xảy ra, các NHTM Nhật Bản cho doanh nghiệp CNHT vay theo chu trình khép kín từ khâu đầu vào đến sản phẩm tiêu thụ cuối cùng.

Nhật Bản rất chú trọng vào phát triển CNHT đặc biệt là các ngành CNHT mũi nhọn, các nguồn vốn của các doanh nghiệp CNHT mũi nhọn được Chính phủ cung ứng vốn một

28


cách tối ưu để đảm bảo trong sản xuất. Một số NHTM lớn của Nhật Bản được Chính phủ chỉ định thực hiện cung ứng vốn cho các doanh nghiệp CNHT mũi nhọn tại đây.

2.2.5.2. Bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại Việt Nam


Qua kinh nghiệm về nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngành CNHT tại các NHTM trên thế giới có thể rút ra các bài học để nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngành CNHT tại các NHTM Việt Nam như sau:

Một là, các NHTM cần kết hợp các nguồn lực tài chính bên ngoài như: Nguồn từ NSNN, Nguồn vốn của chính bản thân doanh nghiệp CNHT để hạn chế các rủi ro trong cho vay doanh nghiệp CNHT. Khi NHTM thực hiện các gói cho vay theo chính sách ưu đãi của Nhà nước nên có sự hỗ trợ từ Nhà nước nếu có rủi ro xảy ra. Nhà nước nên lựa chọn một số NHTM có năng lực tài chính vững mạnh để thực hiện các chính sách cung ứng vốn cho phát triển CNHT mũi nhọn của đất nước.

Hai là, Bên cạnh việc các cơ quan nhà nước triển khai bước xã hội hóa một số hoạt động để thúc đẩy sự phát triển ngành CNHT Việt Nam, thì cần phát huy trách nhiệm của các khách hàng doanh nghiệp CNHT vay vốn thông qua các tổ, nhóm. Điều này đã được minh chứng bằng những thành công của các NHTM ở Thái Lan.

Kinh nghiệm các NHTM Thái Lan cho thấy việc cho vay theo tổ, nhóm đòi hỏi tất cả các thành viên đều phải có trách nhiệm nhắc nhở các thành viên trả nợ, có như vậy thì những người còn lại trong nhóm mới được tiếp tục vay vốn. Thêm vào đó, chính sách không cấp tín dụng mới khi khoản tín dụng cũ chưa được trả đủ cũng là một cách để ngăn nợ xấu phát sinh. Sự gắn bó, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau của các thành viên trong nhóm sẽ giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và sản xuất kinh doanh. Việc tiếp cận thị trường và làm ăn theo nhóm cũng giúp việc phát triển năng lực lãnh đạo và các kỹ năng quản lý.

Ba là, nguyên tắc hướng tới sự phát triển bền vững của ngân hàng thực hiện tín dụng chínhsách. Mặc dù mục tiêu của ngân hàng là cho vay phát triển doanh nghiệp CNHT, để thực hiện được mục tiêu này trong dài hạn cần bảo đảm được tính bền vững của ngân hàng. Để thực hiện điều này, ngân hàng cần phải giảm dần các ưu đãi về lãi suất và chuyển sang các ưu đãi về quy trình, thủ tục, điều kiện cho vay hoặc chỉ áp dụng các ưu đãi về lãi suất đối với một số đối tượng khách hàng doanh nghiệp CNHT có năng lực tài chính, sử dụng vốn vay thấp nhất.

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 14/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí