Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong cho vay trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội chi nhánh Hoàng Quốc Việt - 4


sâu nguyên nhân và đưa ra nhận xét. Sau đó đưa ra một cơ cấu vốn đầu tư hợp lý mà vẫn đảm bảo mục tiêu dự kiến ban đầu của dự án đầu tư, làm cơ sở để xác định mức tài trợ của Ngân hàng. Ví dụ: Sau khi phân tích kỹ kế hoạch chi phí của dự án, cán bộ thẩm định nhận thấy chi phí đầu tư cho TSCĐ quá lớn, kéo theo chi phí cho TSLĐ bị thiếu, không hợp lý thì cán bộ thẩm định có quyền đề xuất với chủ đầu tư nên đi thuê TSCĐ thay vì bỏ quá nhiều chi phí để mua TSCĐ như kế hoạch.

(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều (2014), “Nghiệp vụ Ngân hàng Hiện đại”,

NXB Lao động – Xã hội, trang 505)

b. Thẩm định cơ cấu nguồn vốn của dự án

Một dự án thường được tài trợ từ các nguồn sau:

Vốn tự có: để xác định nguồn vốn tự có của chủ đầu tư dự án, các ngân hàng cần phải phân tích, xem xét tình hình tài chính cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chủ đầu tư ít nhất là trong hai năm gần nhất.

Vốn từ ngân sách Nhà nước: đây là nguồn có tính an toàn cao, thường chỉ được cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh mà sản phẩm của doanh nghiệp mang tính chiến lược đối với nền kinh tế.

Vốn vay từ các NHTM khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Vốn vay trực tiếp từ nước ngoài: nguồn này thường chỉ xuất hiện trong các dự án lớn, chuyển giao công nghệ hay nhập thiết bị từ nước ngoài.

Muốn dự án khả thi thì phải đảm bảo đầy đủ vốn, phải xem xét tỷ lệ tương quan hợp lý giữa các nguồn vốn. Nếu vốn đi vay quá lớn dễ dẫn tới các doanh nghiệp luôn gặp khó khăn về mặt tài chính dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao. Vốn tự có thường phải chiếm 30% tổng vốn đầu tư để đảm bảo khả năng trả nợ của nhà đầu tư cũng như giảm thiểu các chi phí lãi vay.

Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong cho vay trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội chi nhánh Hoàng Quốc Việt - 4

Sau khi tìm hiểu về cơ cấu nguồn vốn của dự án, cán bộ thẩm định tại ngân hàng cần phải xem xét kĩ lưỡng về cơ sở pháp lý của các nguồn này. Chẳng hạn như nếu nguồn tài trợ là ngân sách Nhà nước cấp hoặc ngân hàng cho vay thì phải có sự cam kết của các cơ quan có thẩm quyền, các tổ chức bằng văn bản… Bất kỳ nguồn vốn nào cũng đều phải có giấy tờ, văn bản xác nhận của cơ quan, các cấp có thẩm quyền.

Khi tổng mức vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn đã được duyệt, thông qua việc xem xét quy mô các nguồn tài trợ, ngân hàng sẽ xác định được số vốn còn thiếu và mức độ cho vay đối với dự án.Ví dụ, khi CBTĐ đã xác định được tổng nguồn vốn cần thiết của dự án là bao nhiêu, trong đó nguồn vốn tự có chiếm bao nhiêu % trong tổng nguồn vốn, nguồn vốn huy động từ các nguồn vốn khác như huy động bên ngoài, cho vay từ ngân sách nhà nước…chiếm bao nhiêu % trong tổng nguồn vốn, cân đối giữa

11

các nguồn vốn này so với nguồn vốn tài trợ của ngân hàng, CBTĐ sẽ tính ra được nguồn vốn tài trợ cho dự án bằng bao nhiêu để đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.Trong trường hợp các ngân hàng tham gia hợp vốn để cho vay thì các yếu tố về nguồn tài trợ phải được tất cả các ngân hàng đồng tài trợ cùng xem xét, bàn bạc rồi mới đi đến quyết định thống nhất.

(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều (2014), “Nghiệp vụ Ngân hàng Hiện đại”,

NXB Lao động – Xã hội, trang 508)

c. Thẩm định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án

Cán bộ thẩm định tại ngân hàng cần phải xem xét, đánh giá về tiến độ thực hiện dự án và nhu cầu vốn cho từng giai đoạn như thế nào, có hợp lý hay không. Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trong từng giai đoạn thực hiện dự án để tham gia trong từng giai đoạn có hợp lý hay không, thông thường vốn tự có phải tham gia đầu tư trước. Cụ thể CBTĐ khi thẩm định tài chính của dự án cần phải lập bảng chi phí dự án bỏ ra tương ứng với thời gian và tiến độ thực thi dự án mà nhà đầu tư cung cấp, sau khi tính toán bảng chỉ phí, CBTĐ sẽ lập bảng tiến độ giải ngân và xác định thời gian giải ngân phù hợp với chi phí của từng giai đoạn thuộc dự án, nhằm tránh xảy ra việc mất kiểm soát trong tình trạng quản lý vốn, nếu giải ngân quá trễ sẽ ảnh hưởng tới tiến độ thi công nhưng giải ngân quá sớm sẽ không kiểm soát được nguồn tiền được sử dụng như thế nào, có hợp lý hay không.

(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều (2014), “Nghiệp vụ Ngân hàng Hiện đại”,

NXB Lao động – Xã hội, trang 508)

d. Thẩm định doanh thu chi phí lợi nhuận và dòng tiền của dự án đầu tư

Sau khi thẩm định tổng nhu cầu vốn, bước tiếp theo là thẩm định các chỉ tiêu kinh tế tài chính của dự án, tức là xem xét tới các yếu tố thu- chi, để từ đó xem xét được dòng tiền của dự án. Việc thẩm định các chỉ tiêu này dựa trên các báo cáo tài chính dự tính theo từng năm hoặc từng giai đoạn của dự án.

Doanh thu của dự án

Doanh thu từ hoạt động của dự án được tính hàng năm và bao gồm các khoản:

Doanh thu từ sản phẩm chính, từ sản phẩm phụ, phế liệu.

Doanh thu từ dịch vụ cung cấp cho bên ngoài.

Doanh thu của dự án = Thu từ sản phẩm chính + Thu từ sản phẩm phụ+ Thu từ các dịch vụ cung cấp cho bên ngoài

Doanh thu của dự án tác động trực tiếp đến lợi nhuận của chủ đầu tư dẫn đến khả năng trả gốc và lãi của khoản vay cho ngân hàng.


12



Đối với các dự án mà sản phẩm rất nhạy cảm với các biến động của thị trường trong và ngoài nước hoặc mức độ cạnh tranh trên thị trường thì cần có sự thay đổi giá bán qua các năm, hoặc xếp hạng mức độ rủi ro của dự án cao hơn. Đặc biệt những dự án xây lắp cần phải thu mua sắt thép thì sẽ chịu ảnh hưởng lớn từ sự biến động giá cả, cũng như rủi ro về tỷ giá hối đoái nếu là dự án đòi hỏi nhập khẩu nguyên vật liệu.

Chi phí của dự án

Chi phí hoạt động hàng năm của dự án được xác định căn cứ vào kế hoạch sản xuất, kế hoạch khấu hao, kế hoạch trả nợ, bao gồm:

Nguyên vật liệu chính, vật liệu bao bì, bán thành phẩm và dịch vụ mua ngoài, nhiên liệu, năng lượng…

Chi phí nhân công: lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội, trợ cấp.

Chi phí trả lãi vay

Chi phí quản lý doanh nghiệp, quản lý phân xưởng, tiêu thụ sản phẩm.

Chi phí khấu hao tài sản cố định

Chi phí sửa chữa máy móc, thiết bị…

Tổng chi phí = Tổng giá thành + Chi phí quản lý + Chi phí bán hàng + Chi phí hoạt động tài chính

Chi phí lãi vay của dự án được tính dựa trên kế hoạch vay và trả nợ đối với các nguồn huy động từ bên ngoài. Cần kiểm tra lại cách tính trả lãi và gốc cho phù hợp với thông lệ của ngân hàng, để khách hàng cân đối nguồn trả nợ cho các nguồn vay ngoài và chi phí lãi vay cho ngân hàng. Ví dụ khách hàng ngoài khoản vay của ngân hàng còn có khoản vay phải trả theo hình thức trả lãi và gốc đều hàng tháng, thì ngân hàng có thể linh động phương thức trả lãi đều hàng quý để giảm áp lực trả nợ cho khách hàng.

Dựa trên cơ sở doanh thu và chi phí hàng năm sẽ tính được lợi nhuận ròng hàng năm theo công thức:

Thu nhập chịu

=

thuế trong kỳ

Doanh thu

-

trong kỳ

Chi phí hợp lý

+

trong kỳ

Thu nhập khác trong kỳ

Thuế thu nhập = Thu nhập chịu thuế trong kỳ * thuế suất thuế TNDN Lợi nhuận ròng = Thu nhập chịu thuế - Thuế thu nhập

Thẩm định dòng tiền hàng năm của dự án

Đối với các NHTM, khi tiến hành thẩm định hiệu quả tài chính của một dự án thì các chỉ tiêu như chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, ,… từ dự án chưa phải là các


13

chỉ tiêu thu hút được sự quan tâm nhất. Bởi lẽ các chỉ tiêu này chỉ mang ý nghĩa tổng kết hoạt động kinh doanh của dự án trên sổ sách kế toán (mang tính chất thời kỳ) mà không phản ánh chính xác khi nào thu nhập và chi phí được thu vào hoặc chi ra, hay nói cách khác chúng ta không thể xác định được thời điểm xuất hiện của các khoản tiền này. Chính vì vậy, để có thể đưa ra được những phân tích, đánh giá chính xác nhằm xác định dự án có hiệu qủa về mặt tài chính hay không, bên cạnh các chỉ tiêu chi phí, doanh thu, nhà thẩm định thường quan tâm tới dòng tiền (CF) của dự án.

Dòng tiền của dự án được định nghĩa là phần chênh lệch trong dòng tiền của doanh nghiệp trong giai đoạn mà dự án được thực hiện so với lúc không thực hiện dự án. Dòng tiền của dự án bao gồm dòng tiền vào và dòng tiền ra. Trong các dự án dòng tiền thường được giả định là xuất hiện vào cuối năm.

Đứng trên góc độ của các NHTM, với tư cách là nhà tài trợ dự án, các dự án mà ngân hàng thẩm định được tài trợ bởi các nguồn vốn hỗn hợp bao gồm vốn tự có của doanh nghiệp và vốn vay ngân hàng. Quá trình thẩm định dòng tiền dự án do NHTM thực hiện gồm các nội dung :

Dòng tiền vào (CIF): là dòng tiền sau thuế mà doanh nghiệp có thể thu hồi để tái đầu tư vào một dự án khác. Các khoản phải thu của dự án thường được tính theo năm và được dựa vào kế hoạch sản xuất, tiêu thụ hàng năm của dự án để xác định. Trong bước này, CBTĐ xác định công suất huy động dự tính của chủ dự án có chính xác hay không, khả năng tiêu thụ sản phẩm, giá của sản phẩm bán ra,…dựa vào định hướng phát triển của ngành nghề và dự báo ảnh hưởng của các yếu tố môi trường. Ví dụ như thực hiện thẩm định dự án đầu tư bất động sản xây dựng tổ hợp khu chung cư cao cấp kết hợp với kinh doanh cho thuê văn phòng và xây dựng hệ thống siêu thị, khu giải trí, CBTĐ dựa trên xu thế phát triển của thị trường BĐS trong thời gian tới, nhu cầu của người dân để từ đó định giá ước tính cho mỗi căn hộ chung cư, thời gian thu được tiền; nhu cầu giải trí mua sắm của người dân như thế nào để từ đó ước lượng doanh thu từ việc kinh doanh siêu thị hay khu giải trí, thời điểm nào thì bắt đầu đem lại lợi nhuận; giá cả và nhu cầu thuê văn phòng trên thị trường hiện tại để ước lượng và được doanh thu và lợi nhuận thu được từ hoạt động này. Sau khi ước tính được các nguồn tiền trên thì CBTĐ sẽ so sánh với bảng tính công suất của chủ dự án để làm cơ sở thẩm định. Như vậy có thể thấy xác định chính xác các khoản phải thu hay dòng tiền vào của dự án là vô cùng quan trọng. Bao gồm:

Vốn vay ngân hàng: đây được xem là một dòng tiền vào của dự án trong năm (năm thực hiện đầu tư dự án).

Doanh thu các năm (doanh thu ngoài thuế) từ hoạt động của dự án.


14



Các khoản thu khác từ dự án như thanh lý TSCĐ, thanh lý vốn lưu động ròng… các khoản này thường được xác định vào năm cuối khi dự án kết thúc.

Giá trị còn lại của máy móc, thiết bị là giá trị có thể bán được tại thời điểm dự án kết thúc.

Dòng tiền ra (COF): Dòng tiền ra của dự án thể hiện qua chi phí của dự án như chi phí đầu tư cho tài sản cố định, cho xây dựng và mua sắm. Việc dự tính các chi phí sản xuất, dịch vụ được dựa trên kế hoạch sản xuất hàng năm, kế hoạch khấu hao, kế hoạch trả nợ của dự án. CBTĐ cần xem xét tính đầy đủ của các loại chi phí, kế hoạch trích khấu hao có hợp lý hay không…Bao gồm:

Chi phí mua sắm, lắp đặt tài sản cố định và đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Những chi phí này được thực hiện vào năm 0 (năm thực hiện đầu tư dự án).

Chi phí nguyên vật liệu, tiền lương, chi phí quản lý và chi phí khác.

Chi phí trả lãi vay.

Thuế thu nhập doanh nghiệp.

Trả gốc vay ngân hang.

Chi phí khác.

Trong việc tính toán cũng cần tính đến yếu tố chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là cơ hội thu nhập bị bỏ qua khi chấp nhận dự án này mà không chấp nhận sự án khác.

Như vậy, dòng tiền hàng năm (CFt) của dự án được xác định theo công thức:

CFt = CIFt - COFt = doanh thu - (Chi phí hoạt động + Thuế TNDN + Chi phí khác) - Trả gốc

= Lợi nhuận sau thuế năm t + KHTSCĐ - Trả gốc

Tóm lại, có thể coi việc thẩm định dòng tiền là khâu quan trọng nhất trong quá trình thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng. Đây là cơ sở chắc chắn nhất giúp cho ngân hàng đánh giá chính xác khả năng trả nợ gốc và lãi vay của dự án.

(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều (2014), “Nghiệp vụ Ngân hàng Hiện đại”,

NXB Lao động – Xã hội, trang 513)

e. Thẩm định lãi suất chiết khấu

Lãi suất chiết khấu chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với một dự án, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác định giá trị NPV.


15

Lãi suất chiết khấu được hiểu là tỷ lệ mà nhờ đó các dòng tiền của dự án được quy về thời điểm hiện tại. Cơ sở để lựa chọn lãi suất chiết khấu là phân tích rủi ro và khả năng sinh lời của dự án. Hơn nữa cơ cấu vốn cũng là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến việc lựa chọn lãi suất chiết khấu.Về bản chất, lãi suất chiết khấu của một dự án chính là chi phí vốn của dự án đó. Bởi, nếu thực hiện dự án, nhà đầu tư sẽ bỏ qua lợi tức kỳ vọng của các dự án khác hay các tài sản tài chính khác có cùng mức rủi ro. Chính vì bỏ qua các hình thức đầu tư khác để tập trung theo đuổi một dự án, nhà đầu tư sẽ đòi hỏi một tỷ lệ sinh lời cần thiết - mức lãi suất chiết khấu của dự án. Vì lãi suất chiết khấu và NPV có quan hệ tỷ lệ nghịch nên chủ đầu tư thường xác định lãi suất chiết khấu nhỏ dẫn đến NPV lớn để làm tăng hiệu quả tài chính của dự án.

Trong trường hợp dự án được tài trợ bằng nguồn vốn đi vay ví dụ như vay từ ngân hàng hay vay từ các nguồn khác thì lãi suất chiết khấu được xác định như sau:

LSCK = Chi phí nợ sau thuế = (1-T)Kd

Trong đó: Kd : Lãi vay trước thuế

T : Thuế suất thuế TNDN

Trong trường hợp dự án được tài trợ hoàn toàn bằng vốn chủ sở hữu, vận dụng mô hình CAPM là mô hình mô tả mối tương quan giữa rủi ro và thu nhập kì vọng, được sử dụng để định giá các chứng khoán có mức độ rủi ro cao, lợi tức kỳ vọng của cổ phiếu được xác định như sau:

LSCK = Tỷ lệ lợi tức kỳ vọng của chủ đầu = Rf +

Trong đó: Rf : Lợi tức phi rủi ro

Rm: Tỷ lệ lợi tức trung bình trên thị trường

(Rm - Rf ): Phần bù rủi ro thị trường

(Rm - Rf )

: Hệ số beta là hệ số rủi ro đặc trưng cho rủi ro thị trường

của 1 loại tài sản tài chính , có thể là cổ phiểu.

Lợi tức phi rủi ro Rf

Đó là tỷ lệ tối thiểu lợi nhuận mà nhà đầu tư sẽ nhận được nếu họ đầu tư vào một nguy cơ bảo mật miễn phí. Trái phiếu Chính phủ được gọi là chứng khoán phi rủi ro.

Trong trường hợp dự án được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu và nợ, lãi suất chiết khấu của dự án là chi phí trung bình của vốn (WACC), công thức:

LSCK = WACC = Kd x (1 – T) xWd + KsxWs

Trong đó: Ks : Chi phí vốn chủ sở hữu

Kd : Chi phí nợ


16



Ws : Tỷ trọng giá trị của vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn

Wd : Tỷ trọng giá trị của nợ trong cơ cấu vốn T : Thuế suất thuế TNDN

(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều (2014), “Nghiệp vụ Ngân hàng Hiện đại”,

NXB Lao động – Xã hội, trang 515)

f. Thẩm định các chỉ tiêu tài chính của dự án đầu tư

Hiệu quả tài chính dự án đầu tư được đánh giá thông qua các phương pháp phân tích tài chính trên cơ sở dòng tiền của dự án. Dòng tiền của một dự án được hiểu là dòng tiền ròng thực tế, không phải thu nhập ròng kế toán vào hoặc ra công ty trong một thời kì nhất định. Khi xác định thì cần chú ý chỉ xác định dòng tiền có liên quan và sự thay đổi của vốn lưu động ròng. Quá trình xác định dòng tiền ròng hàng năm dựa trên lợi nhuận sau thuế, khấu hao, lãi vay và những khoản mục điều chỉnh khác khi có sự khác biệt trong cơ cấu đầu tư tài trợ cho dự án. Có 2 phương pháp để xác địng dòng tiền là: phương pháp trực tiếp và gián tiếp. Nếu sai lầm trong việc xác định các dòng tiền có thể dẫn đến tính toán và thẩm định hiệu quả tài chính dự án không có ý nghĩa thực tế nữa..

Các phương pháp tính toán tài chính được sử dụng trong thẩm định hiệu quả tài chính bao gồm 1 số phương pháp tính sau:

Phương pháp: Giá trị hiện tại ròng (NPV)

Giá trị hiện tại ròng của một dự án là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính mà dự án mang lại với giá trị đầu tư ban đầu. Do vậy, chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm (NPV dương) hay giảm đi (NPV âm).

Công thức tính toán Giá trị hiện tại ròng ( NPV) như sau :


C1

NPV = C0 +

C2 C3


+

+

2

Cn

3

n

+……+


Trong đó :

(1+r) (1+r)

(1+r)

(1+r)

NPV là giá trị hiện tại ròng

C0 là vốn đầu tư ban đầu, do là khoản đầu tư luồng tiền ra nên mang dấu âm.

C1, C2, C 3,…Cn là các luồng tiền dự tính mà dự án mang lại tại năm 1,2,3,…n

r là tỷ lệ chiết khấu của dự án

Nguyên tắc đánh giá dự án bằng chỉ tiêu NPV:


17

Dự án độc lập với nhau:

NPV > 0: Dự án có lãi: chấp nhận dự án

NPV < 0: Dự án lỗ: loại bỏ dự án

NPV = 0: Dự án hoà vốn: tuỳ từng quan điểm của nhà đầu tư mà có nến thực hiện tiếp dự án này hay không. Ví dụ như nhà nước có mục tiêu phát triển một số dự án không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì phát triền xã hội chung, tạo công ăn việc làm cho người lao động, điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế…

Dự án loại trừ nhau

NPV(A) >NPV(B)

NPV (A) >= 0

Như vậy lựa chọn dự án A để đầu tư

Ý nghĩa của chỉ tiêu: NPV phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư.

Ưu điểm:

NPV phản ánh giá trị tăng thêm của dự án đầu tư, cho biết giá trị lợi nhuận mà dự án đem lại, do đó giúp cho doanh nghiệp lựa chọn được dự án phù hợp với mục tiêu tối ưu hoá lợi nhuận.

Cho phép đánh giá hiệu quả tài chính của dự án một cách chính xác vì có tính đến giá trị thời gian của tiền.

Nhược nhiểm:

NPV không cho biết khả năng sinh lợi tính bằng tỷ lệ phần trăm nên không thuận tiện cho việc so sánh cơ hội đầu tư.

NPV không quan tâm đếm sự khác biệt về thời gian hoạt động của các dự án nên việc lựa chọn dự án có NPV lớn nhất không được chính xác.

NPV dùng chung một lãi suất chiết khấu cho tất cả các năm hoạt động của dự án nhưng tỷ lệ chiết khấu luôn thay đổi theo sự thay đổi của các yếu tố kinh tế xã hội.

Không thấy được giá trị lợi ích thu được từ một đồng vốn đầu tư.

Về tính toán, NPV phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, tức chi phí sử dụng vốn mà đó lại là một vấn đề rất khó khăn trong tính toán vì thề mà NPV cũng rất khó tính chính xác.


18


Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 06/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí