Các Nhân Tố Tác Động Đến Nâng Cao Chất Lượng Độ Ngũ Cán Bộ Công Đoàn


ngữ, tin học; số lượng, tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học, đại học phần về lý luận và nghiệp vụ công đoàn; số lượng, tỷ lệ cán bộ có trình độ sơ cấp, trung cấp, cao cấp, cử nhân lý luận chính trị; số lượng, tỷ lệ cán bộ được đánh giá hàng năm đạt các danh hiệu chiến sĩ thi đua, lao động tiên tiến...; số lượng, tỷ lệ cán bộ có sức khỏe loại A, B, C hàng năm...

Cơ cấu đội ngũ cán bộ công đoàn hiện này đã được quy định rất rõ ràng trong Luật Công đoàn, Điều lệ Công đoàn Việt Nam, qua đó góp phần xây dựng cơ cấu đội ngũ công đoàn ổn định về lực lượng, vững mạnh về số lượng. Thực tế hiện nay việc hợp lý hóa cơ cấu cán bộ công đoàn gặp khó khăn trong việc phân bố tỷ lệ cán bộ công đoàn với số công nhân, lao động. Ở một số khu vực ngoài nhà nước, các khu công nghiệp, nơi có số lượng công nhân, lao động lớn nhưng số lượng cán bộ công đoàn rất ít. Một phần là do cán bộ công đoàn ở đây do doanh nghiệp trả lương nên rất khó khăn trong việc thực hiện chức năng của tổ chức công đoàn, bên cạnh đó, đây cũng là những khu vực thường xuyên có những bất ổn giữa lao động và người sử dụng lao động liên quan đến lợi ích của các bên, do vậy mà trách nhiệm, áp lực đối với cán bộ công đoàn lúc này là rất lớn, do đó họ thường dễ xin chuyển công tác về những nơi yên ổn hơn. Do vậy mà ở các khu vực này thường mất cân đối giữa tỷ lệ cán bộ công đoàn với số lượng công nhân, lao động.

Một vần đề khác nữa đó là số lượng, tỷ lệ cán bộ có trình độ A, B, C trung cấp, cao đẳng. đại học về ngoại ngữ, tin học. Hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ công đoàn bị hạn chế về ngoại ngữ, tin học. Đó là những người đã có tuổi, trưởng thành từ thời kỳ đất nước còn khó khăn, thiếu thốn. tuy nhiên đây là những cán bộ có năng lực công đoàn rất cao, do trưởng thành từ phong trào công nhân nên họ có một sự hiểu biết rất sâu sắc về công đoàn, là nguồn kinh nghiệm, tác phong làm việc phong phú cho lớp cán bộ công đoàn trẻ tuổi ngày nay học tập.


1.3. Các nhân tố tác động đến nâng cao chất lượng độ ngũ cán bộ công đoàn

1.3.1. Nhân tố bên trong tổ chức

1.3.1.1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng

Công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ công đoàn được xem là nhân tố chính trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn. Cán bộ công đoàn được giáo dục đầy đủ kiến thức, được đào tạo, bồi dưỡng theo phương pháp bài bản, tích cực về lý luận, nghiệp vụ sẽ nâng cao được năng lực bản thân cũng như chất lượng cho đội ngũ cán bộ công đoàn. Bởi vì năng lực tư duy, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị và khả năng vận dụng linh hoạt các phương pháp hoạt động của cán bộ công đoàn về cơ bản được hình thành trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ công đoàn được trang bị một lượng kiến thức cần thiết, có tính hệ thống về chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, đó là cơ sở quan trọng để hình thành năng lực của cán bộ công đoàn.

Tuy nhiên, hiện nay công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ công đoàn còn nhiều bất cập:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

- Nhận thức của các cấp công đoàn về đào tạo, bồi dưỡng chưa tương xứng với nhu cầu và yêu cầu. Số lớp tổ chức chưa nhiều, chưa phổ cập được đến đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở. Việc tổ chức lớp vẫn dàn trải, chưa phân loại đối tượng để tổ chức tập huấn riêng theo những nội dung chuyên sâu phù hợp với đối tượng của từng loại hình công đoàn cơ sở thuộc khối hành chính sự nghiệp, khối sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

- Phương pháp triển khai nội dung theo các chuyên đề vẫn áp dụng theo phương pháp thuyết trình là chính; thời gian tổ chức một buổi tập huấn thường chỉ trong một buổi nhưng có từ 2 - 3 nội dung nên chưa sâu, chưa kỹ. Thời gian để tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ công đoàn trong doanh nghiệp gặp khó khăn, nhất là trong các doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài Nhà nước.

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Công đoàn Ngân hàng Việt Nam - 5


- Nội dung bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ công đoàn cơ sở chưa liên hệ và gắn kết nhiều với thực tiễn hoạt động ở cơ sở; chủ yếu vẫn là cung cấp các kiến thức mà chưa quan tâm nhiều đến việc trang bị các kỹ năng cần thiết cho cán bộ công đoàn cơ sở để thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra; các nội dung vẫn từ cấp trên triển khai xuống mà chưa xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng của đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở.

- Đội ngũ giảng viên kiêm chức còn thiếu, trình độ, năng lực chưa đồng đều; Việc chủ động tổ chức triển khai nội dung tập huấn ở một số công đoàn cấp trên cơ sở và công đoàn cơ sở còn hạn chế, chủ yếu dựa vào công đoàn ngành, Tổng Liên đoàn cả về giảng viên và nguồn kinh phí cấp hỗ trợ, chưa chủ động giảng viên tại chỗ và sử dụng nguồn kinh phí theo quy định.

- Công tác tổng hợp, thống kê, báo cáo đánh giá kết quả tập huấn, bồi dưỡng hằng năm ở các cấp công đoàn chưa được thực hiện thường xuyên; thời lượng tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ có nơi còn ít, chưa đảm bảo yêu cầu.

- Nguồn kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn còn hạn chế, chưa đạt yêu cầu theo hướng dẫn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Bên cạnh đó, một vấn đề có tác động không nhỏ đến công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ công đoàn đó là nhận thức của cán bộ công đoàn về công tác giáo dục, đào tạo, bồi đưỡng. Vấn đề này thể hiện thông qua tinh thần ham học hỏi, ham hiểu biết của cán bộ công đoàn. Trước hết, để có năng lực, cán bộ công đoàn phả thực sự là người yêu nghề, có sở thích và hăng say trong hoạt động công đoàn, có ý chí và nỗ lực vươn lên trong hoạt động nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới, sáng tạo trong hoạt động công đoàn. Trên thực tế, tri thức rất phong phú, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn thông qua trường học hoặc các đợt bồi dường, tập huấn thì không thể đáp ứng được công việc hàng ngày. Xã hội ngày càng phát triển, cho nên việc tự học, tự rèn luyện về nhiều mặt là phương pháp tốt nhất để nâng cao năng


lực cho mỗi người. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, toàn cầu cầu hóa, hội nhập quốc tế, chỉ có những người say mê với công việc của mình mới có nghị lực vượt qua mọi khó khăn để không ngừng học tập, rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ mới hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác.

1.3.1.2. Công tác tuyển chọn, sử dụng

Việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ công đoàn như thế nào cũng là nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng của đội ngũ cán bộ công đoàn.

Tuyển chọn là quá trình đánh giá các ứng viên theo nhiều khía cạnh khác nhau dựa vào các yêu cầu của công việc, để tìm được những người phù hợp với các yêu cầu đặt ra trong số những người đã thu hút được trong quá trình tuyển mộ. Cơ sở của tuyển chọn là các yêu cầu của công việc đã được đề ra theo bản mô tả công việc theo vị trí việc làm và bản yêu cầu đối với người thực hiện công việc.

Sau khi được tuyển chọn, cán bộ công đoàn sẽ được sắp xếp làm việc tại các vị trí phù hợp theo nguyện vọng cũng như năng lực trình độ của người cán bộ.

Căn cứ nhu cầu, tình hình thực tế của đơn vị mình, các cơ quan của công đoàn tuyển chọn thêm các cán bộ công đoàn vào làm việc. Nếu lựa chọn được đúng người, bố trí, sắp xếp công việc một cách hợp lý, phù hợp với khả năng của người đó thì sẽ góp phần vào việc thúc đẩy các phong trào, hoạt động ngày càng đi lên, giúp cho tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh.

Tuy nhiên hiện này, việc tuyển chọn cán bộ công đoàn gặp không ít khó khăn. Các trường đào tạo thuộc hệ thống công đoàn có số lượng hạn chế, các khoa, cán bộ giảng viên đào tạo chuyên ngành công đoàn hiện nay đã không bảo đảm yêu cầu về đào tạo cán bộ công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chưa có chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ…do vậy nguồn lực bổ sung trực tiếp cho đội ngũ cán bộ công đoàn rất hạn chế, chủ yếu đến từ các nguồn khác. Nguồn lực để tuyển chọn cho đôi ngũ cán bộ công đoàn hiện nay thường là trái


ngành, trái nghề, sau một thời gian làm việc, học hỏi, đúc kết kinh nghiệm, bồi dưỡng, dần dần cán bộ công đoàn sẽ vững vàng và trưởng thành hơn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp công đoàn. Công tác tuyển dụng cán bộ công đoàn theo phân cấp của Trung ương do cấp ủy ở địa phương thực hiện (thường là thông qua thi tuyển công chức Nhà nước) là chưa thật phù hợp với điều kiện sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ trưởng thành từ công nhân, từ thực tiễn sản xuất, đây là khó khăn không nhỏ cho việc tạo nguồn cũng như nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp.

Việc sử dụng cán bộ công đoàn hiện nay sao cho hiệu quả cũng là một vấn đề quan trọng. Nếu sử dụng đúng cán bộ đúng với công việc yêu cầu sẽ giúp phát huy được năng lực của cán bộ, đồng thời góp phần thúc đẩy các phong trào ngày càng đi lên. Ngược lại, nếu việc sử dụng cán bộ không đúng sẽ khiến cho công việc không được suôn sẻ, gây tâm lý chán nản cho cán bộ...Ví dụ, người cán bộ có thiên hướng hoạt động sôi nổi lại được xếp vào làm công việc liên quan đến tài chính hoặc cán bộ có thiên hướng làm việc điềm tĩnh, chắc chắn được cử làm các công việc liên quan đến phong trào, tuyên truyền, giáo dục...

1.3.1.3. Môi trường hoạt động

Môi trường hoạt động của cán bộ công đoàn là tổng thể không gian xung quanh nơi cán bộ công đoàn làm việc, là yếu tố khách quan hàng ngày ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn.

Môi trường hoạt động của cán bộ công đoàn bao gồm những yếu tố như không gian làm việc xung quanh, tinh thần đoàn kết của các cán bộ, tính dân chủ, sự quan tâm, giúp đỡ nhau trong công việc...nếu những yếu tố này mang tính tích cực sẽ góp phần thúc đẩy tinh thần làm việc của cán bộ công đoàn lên cao, là động lực mạnh mẽ, khuyến khích, động viên cán bộ công đoàn gắn bó với tổ chức, không ngại vượt qua khó khăn, thử thách, phấn đấu học tập, rèn luyện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà tổ chức công đoàn giao phó. Ngược lại, nếu môi trường làm việc của cán bộ không tốt, không dân chủ,


thiếu sự đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau thì không khuyến khích được người cán bộ hăng hái làm việc, kìm hãm sự phát triển của cán bộ, làm suy giảm chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn.

Do vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn, các cấp công đoàn cần quan tâm đến công tác bố trí, sử dụng cán bộ sao cho hợp lý, phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực của mỗi người và yêu cầu của công việc, xây dựng môi trường làm việc văn minh, đoàn kết, các cá nhân trong tập thể phải thực sự yêu tôn trọng, quan tâm đến nhau, cùng giúp nhau phát triển.

Thực tiễn cũng cho thấy trong một đơn vị không quan trọng số lượng cán bộ công đoàn là bao nhiêu, dù ít hay nhiều, nhưng nếu đơn vị xây dựng được cơ chế hoạt động tốt, quan hệ tập thể trong sáng, lành mạnh, có chính sách cán bộ phù hợp, người cán bộ sống với nhau có tình nghĩa thì nơi đó có môi trường tốt cho cán bộ công đoàn phát huy hết khả năng của mình.

1.3.2. Nhân tố bên ngoài tổ chức

1.3.2.1. Hệ thống chính sách, pháp luật, cơ chế

Chất lượng của đội ngũ cán bộ công đoàn còn phụ thuộc vào cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ, chính sách bảo vệ cán bộ và phụ thuộc vào việc tổ chức thực hiện tốt cơ chế chính sách đối với cán bộ nói chung, cán bộ công đoàn nói riêng sẽ tạo động lực khuyến khích cán bộ nỗ lực vươn lên trong công tác, học tập, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn. Ngược lại nếu cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ và bảo vệ không tốt thì không những không khuyến khích nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn mà còn có thể làm cho cán bộ công đoàn không thết tha, gắn bó với công đoàn, hạn chế động cơ phấn đấu, vươn lên của cán bộ công đoàn.

Thực tế cho thấy, chính sách tiền lương là yếu tố góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước, tạo động lực, kích thích hoạt động quản lý nhà nước, sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển thị trường lao động, khuyến khích người cán bộ rèn luyện nghiệp vụ, nâng cao trình độ

31


chuyên môn, trong đó có đội ngũ cán bộ công đoàn, góp phần xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh, ổn định và phát triển tình hình kinh tế

- xã hội của đất nước trong tình hình mới. Tuy nhiên, chính sách tiền lương, tiền công của cán bộ công đoàn còn nhiều bất cập. Dựa trên thu nhập đó, cán bộ công đoàn và gia đình họ chưa có mức sống trung bình khá trong xã hội. Tiền lương, tiền công, phụ cấp và thu nhập của cán bộ công đoàn chưa là nguồn thu nhập chính, chưa tạo động lực, nhất là đối với người có năng lực, trình độ, chuyên tâm cống hiến hết mình trong công việc, do đó chưa phát huy được tính sáng tạo để có năng suất, chất lượng và hiệu quả.

1.3.2.2. Bối cảnh hội nhập quốc tế

Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng; tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; những điều kiện phát triển mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt Công đoàn Việt Nam trước những thách thức, khó khăn cần vượt qua. Trong đó có việc Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), theo đó, trong tương lai, người lao động có quyền tự do thành lập hoặc gia nhập tổ chức mà họ lựa chọn làm đại diện. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ công đoàn hiện nay còn nặng tư tưởng bao cấp, trình độ non yếu, trì trệ, bảo thủ không phù hợp với kinh tế thị trường và sự phát triển khoa học công nghệ. Hạn chế của công tác cán bộ sẽ là những thách thức khi cuộc cạnh tranh đến gần, tự người lao động lựa chọn người lãnh đạo công đoàn của mình. Vì vậy, tổ chức công đoàn trong tình hình mới rất cần những cán bộ bản lĩnh, trình độ, uy tín tham gia lãnh đạo công đoàn, nhất là ở cơ sở.

Tổ chức công đoàn Việt Nam hiện có nhiều ưu thế nhưng cũng có nhiều bất cập về mô hình tổ chức; hoạt động mang tính hành chính, tổ chức phong trào thuần túy, bề nổi, chậm thích ứng với tình hình mới. CĐCS có quá nhiều nhiệm vụ; ngoài việc triển khai nghị quyết, kế hoạch của cấp trên, còn phải tổ chức những hoạt động của địa phương, doanh nghiệp, trong đó khá


nhiều việc không nằm trong chức năng nhiệm vụ của công đoàn. Thực tế, phần lớn CĐCS chỉ tập trung vào các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan, hiếu hỷ, phong trào bề nổi, các hoạt động chính trị theo chỉ đạo của cấp trên. Trong khi vận hành kinh tế thị trường, quan hệ lao động phức tạp rất cần công đoàn đại diện bảo vệ người lao động trong lĩnh vực luật pháp, giải quyết tranh chấp, thương lượng, hòa giải... Khi tổ chức đại diện khác của người lao động được thành lập chỉ tập trung vào mục đích, nhiệm vụ chính là đại diện bảo vệ người lao động thì dễ lôi cuốn người lao động. Nếu không đổi mới nội dung phương thức hoạt động công đoàn ở cơ sở, Công đoàn Việt Nam sẽ không được người lao động tham gia, ủng hộ ngay từ cấp cơ sở.

Vì vậy, những thách thức về rào cản thương mại và lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay tác động rất lớn đến vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn.

1.4. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn của một số công đoàn ngành và bài học cho Công đoàn Ngân hàng Việt Nam

1.4.1. Kinh nghiệm của một số công đoàn ngành

* Công đoàn Điện lực

Trong bối cảnh Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đang khẩn trương hoàn thành kế hoạch giai đoạn 2015 – 2020 và thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp theo lộ trình được phê duyệt, hoạt động Công đoàn Điện lực Việt Nam nhiệm kỳ mới yêu cầu tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động. Theo đó, Công đoàn Điện Lực Việt Nam đặt ra mục tiêu về công tác cán bộ là "Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn tận tâm, trách nhiệm, vì người lao động".

Theo người đứng đầu Công đoàn Điện lực Việt Nam, công đoàn sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với chuyên môn, tuyên truyền, vận động đoàn viên và NLĐ về các chủ trương lớn của Chính phủ, của EVN, về tái cơ cấu, về nâng cao năng suất lao động; đồng thời tổ chức các phong trào thi đua thiết thực, có

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí