Sự Cần Thiết Phải Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Cho Vay

Tin cậy (reliability): thể hiện khả năng thực hiện dịch vụ phù hợp và đúng hạn ngay lần đầu.

Đáp ứng (responsiveness): thể hiện sự sẵn lòng của nhân viên phục vụ nhằm cung cấp, dịch vụ kịp thời cho khách hàng.

Năng lực phục vụ (assurance): thể hiện trình độ chuyên môn và cung cách phục vụ lịch sự, niềm nở với khách hàng.

Đồng cảm (empathy): thể hiện sự quan tâm chăm sóc đến từng cá nhân khách hàng.

Phương tiện hữu hình (tangibles): thể hiện qua ngoại hình, trang phục của

nhân viên phục vụ, các trang thiết bị để thực hiện dịch vụ.

Dựa trên mô hình phân tích này, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng dịch vụ cho vay được xây dựng cho nghiên cứu này và được chuyển thành hệ thống các câu hỏi Likert để lấy ý kiến khách hàng có vay vốn tại Agribank chi nhánh huyện Minh Hóa Bắc Quảng Bình.

1.5. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng cho vay

1.5.1. Nâng cao chất lượng tín dụng cho vay quyết định sự tồn tại và phát triển của các NHTM

Tín dụng cho vay là hoạt động chủ yếu của các NHTM, nó đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng (hiện nay thu nhập từ hoạt động tín dụng cho vay chiếm trên 80% tổng thu nhập của hầu hết các NHTM) nhưng cũng đồng thời chứa đựng nhiều khả năng rủi ro, vì vậy phải nâng cao chất lượng tín dụng cho vay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Chất lượng tín dụng cho vay làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ, nâng cao uy tín, thu hút được nhiều khách hàng, tạo cơ sở cho sự phát triển ổn định của các NHTM.

Chất lượng tín dụng cho vay tạo khả năng giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản

Nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Minh Hóa Bắc Quảng Bình - 6

lý, cải thiện tình hình tài chính và tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh.

Chất lượng tín dụng cho vay tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài, phát triển của NHTM. Bởi vì, chất lượng tín dụng cho vay cho phép ngân hàng có những khách hàng truyền thống và những khoản lợi nhuận lớn là cơ sở để tăng thu nhập, cải thiện đời sống và ổn định việc làm cho người lao động.

1.5.2. Nâng cao chất lượng tín dụng cho vay là đòi hỏi bức thiết đối với sự phát

triển của nền kinh tế - xã hội

Hiện nay, với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá đòi hỏi tín dụng cho vay phải nhanh chóng mở rộng, hoàn thiện để cung cấp nhiều phương thức giao dịch có chất lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Bởi vì vậy nâng cao chất lượng tín dụng cho vay là yêu cầu cần thiết, bởi lẽ:

Thứ nhất: Đảm bảo chất lượng tín dụng cho vay là điều kiện để NHTM làm tốt vai trò trung tâm thanh toán, chất lượng tín dụng cho vay được bảo đảm sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, cũng cố sức mua của đồng tiền, góp phần điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ.

Thứ hai: Chất lượng tín dụng cho vay tạo điều kiện cho NHTM làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, cung ứng và luân chuyển vốn trong xã hội, thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển, hưng thịnh.

Thứ ba: Đảm bảo chất lượng tín dụng cho vay sẽ tạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, góp phần kiểm soát lạm pháp, ổn định tiền tệ, tăng uy tín quốc gia.

Thứ tư: Tín dụng cho vay là công cụ thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội theo ngành, lĩnh vực, khai thác tiềm năng về tài nguyên, lao động, tiền vốn...tăng năng lực sản xuất, góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo phát triển cân đối giữa các vùng, các ngành trong cả nước ổn định và phát triển nền kinh tế.

Thứ năm: Chất lượng tín dụng cho vay góp phần làm lành mạnh hoá quan hệ tín dụng. Hoạt động tín dụng cho vay được mở rộng với các thủ tục đơn giản, thuận tiện tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng đối tượng, giảm dần và tiến tới xoá bỏ cho vay nặng lãi góp phần lành mạnh quan hệ tín dụng.

Để có chất lượng tín dụng cho vay, ngoài sự nỗ lực của các NHTM đòi hỏi nền kinh tế phải ổn định và phải có một cơ chế phù hợp về chính sách, chế độ, sự

phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các ngành, các cấp... tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động tín dụng ngân hàng.

Tín dụng cho vay có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế - xã hội. Thiết lập một cơ chế tín dụng cho vay đồng bộ, có hiệu quả sẽ có tác động tích cực tới mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, điều đó cũng thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.

1.5.3. Quan hệ giữ chất lượng dịch vụ tín dụng và sự hài lòng của khách hàng

Giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng có sự tách biệt. Do đó việc đánh giá, đo lường cũng có sự tách biệt giữa hai vấn đề này. Phần lớn công tác đo lường sự hài lòng của khách hàng chỉ được thiết kế đơn giản để đánh giá sự hài lòng tổng thể hay đơn thuần với một sản phẩm hay dịch vụ. Sự hài lòng của khách hàng là một khái niệm phức tạp nhưng trước đây các nhà nghiên cứu thường dùng thang đo một yếu tố từ 4 đến 7 điểm giữa hai thái cực “rất không hài lòng” và “rất hài lòng”. Loại câu hỏi này dễ trả lời và phân tích nhưng thông tin có được lại không phản ảnh chính xác những thành phần nào của sản phẩm/dịch vụ mà khách hàng cho là quan trọng nhất trong việc làm họ hài lòng và thực tế họ nhận được kết quả của từng thành phần này như thế nào. Trên cơ sở nghiên cứu của Hayes, để đánh giá sự hài lòng của khách hàng thì dựa vào thang đo gồm hai biến quan sát nhằm đánh giá mức độ hài lòng tổng quát của khách hàng đối với dịch vụ tín dụng, cung cách phục vụ của nhân viên của ngân hàng.

1.6. Bài học kinh nghiệm của hệ thống NHTM ở một số nước trên thế giới về

quản lý và nâng cao chất lượng tín dụng cho vay

1.6.1. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới

Trên thực tế, sự phát triển quá nóng của kinh tế Trung Quốc thời gian qua tác động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế thế giới. Trung Quốc chỉ chiếm có 4% GDP toàn thế giới, nhưng lại tiêu thụ tới 19% sản lượng dầu mỏ, 21% sản lượng xi măng và gần 30% sản lượng thép toàn thế giới... Như vậy cũng có nghĩa là nó đang tạo ra những hiệu ứng rất mạnh với các nền kinh tế. Trong thời gian qua, giá một loạt nguyên liệu đầu vào cho sản xuất như hạt nhựa, clinke (sản xuất xi măng), dầu mỏ,

phôi thép, than coke (luyện thép), sợi dệt, bột giấy, armoniac (sản xuất phân bón)...tăng mạnh trên thị trường thế giới đều có chung nguyên nhân là bị sức hút mạnh từ thị trường Trung Quốc.

Trước thực trạng này, vừa qua Trung Quốc đã có nhiều động thái tích cực về cải cách tín dụng. Cụ thể là họ đã thành lập cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng độc lập nằm ngoài Ngân hàng Trung ương; áp dụng chuẩn mực giám sát ngân hàng theo Công ước Basel; làm sạch bảng cân đối tài sản của các ngân hàng thương mại; xóa nợ quá hạn với biện pháp rất mạnh là dùng dự trữ ngoại tệ để tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại quốc doanh mà không sợ lạm phát; xây dựng các thể chế mới; cổ phần hóa 2 ngân hàng thương mại lớn và tiến tới tự do hóa lãi suất... Những chính sách này hiện đang mang lại thành công và góp phần làm cho sự phát triển kinh tế lành mạnh, cũng như giảm thiểu những rủi ro do tăng trưởng quá nóng có thể gây ra.

Bên cạnh đó, Trung Quốc mở cửa thị trường tài chính mạnh mẽ hơn Việt Nam, nhất là với các giao dịch tài khoản vãng lai, tài khoản vốn. Chẳng hạn Trung Quốc cho người nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán mạnh hơn, cho giữ tỷ lệ cổ phần trong các DN theo qui định cũng cao hơn Việt Nam. Chính vì vậy mà dòng vốn đầu tư chảy vào đây rất mạnh. Hiện các tập đoàn xuyên quốc gia đang muốn biến Trung Quốc thành công xưởng sản xuất cho cả thế giới.

Ở Thái Lan, sau cuộc khủng khoảng tài chính năm 1997, Thái Lan đã nhanh chóng đưa ra những biện pháp cải cách hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng như sau:

Thứ nhất, Thái Lan đóng cửa 52 chi nhánh ngân hàng và công ty tài chính tiến hành tổ chức sắp xếp lại các ngân hàng thương mại.

Thứ hai, Các NHTM Thái Lan đã cố gắng nâng cao chất lượng tín dụng, phân tán rủi ro bằng cách tập trung vào các giải pháp quy định phân loại và lựa chọn khách hàng; hạn mức cho vay đối với một khách hàng không quá 25% vốn tự có; các ngân hàng không được đầu tư quá 20% tổng số vốn vào cổ phần, giấy chứng nhận nợ của một công ty; bên cạnh đó ngân hàng thực hiện 100% dự phòng đối với

những tài sản có xếp loại đáng nghi ngờ. Tỷ lệ dự trữ thanh khoản theo quy định là 7% trong đó 2% tiền gửi tại ngân hàng Trung ương tối đa không quá 2,5% tiền mặt, còn lại dưới dạng chứng khoán và buộc các ngân hàng bị đóng cửa phải tăng vốn điều lệ lên 15% tổng nguồn vốn thì mới có thể tiếp tục hoạt động.

Thứ ba, Chính phủ tiến hành lập cơ quan tái cơ cấu tài chính (Financial Restructuring Agency - FRA) để quản lý thanh khoản cho 58 chi nhánh ngân hàng và công ty tài chính có vấn đề. FRA có nhiệm vụ đảm bảo an toàn cả vốn lẫn lãi cho người gửi tiền, đồng thời thành lập công ty quản lý tài sản (Asset Managenment Company - AMC) có trách nhiệm quản lý các khoản nợ khó đòi, tiến hành xử lý thu nợ.

Với những kiên quyết trong cải cách ngân hàng vừa qua theo “cơ chế cứu hộ” của Chính phủ đồng thời với sự trợ giúp của IMF đã giúp Thái Lan phục hồi sau khủng hoảng.

1.6.2. Những bài học kinh nghiệm

Qua khảo sát một số nét về tình hình quản lý tín dụng ở một số nước, có thể

rút ra một số bài học sau:

- Một là: Vấn đề an toàn trong hoạt động tín dụng là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các NHTM.

- Hai là: Chú trọng và tăng cường công tác thông tin, sàng lọc thông tin và tập hợp những thông tin tin cậy sẽ giúp cho ngân hàng tìm được người vay có triển vọng. Muốn vậy, kinh doanh ngân hàng phải gắn liền với thông tin và cung cấp thông tin. Điều đó cũng có nghĩa là quản lý tín dụng phải tập trung vào công tác phòng ngừa, tăng cường chất lượng khâu thẩm định ban đầu cũng như giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay để giảm tối đa các khoản nợ bị mất mát.

- Ba là: Quản lý tín dụng tập trung quản lý tài sản có. Thông qua việc xếp loại các tài sản có và trích lập quỹ dự phòng, NHTM vừa giám sát được chất lượng tín dụng vừa có biện pháp kịp thời để bù đắp rủi ro mất vốn, đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết.

- Bốn là: Chất lượng tín dụng sẽ được cải thiện nếu môi trường pháp lý đầy đủ, nghiêm minh có các chỉ tiêu đầy đủ, cụ thể được định lượng hoá thuận lợi trong

việc giám sát, kiểm tra áp dụng các hình thức tín dụng phù hợp với khả năng rủi ro

của khoản tiền cho vay.

- Năm là: Tiêu chuẩn hoá có tính chất quốc tế các chỉ tiêu quản lý nợ đã và

đang thực hiện, tạo sự tiện lợi trong việc giao dịch giữa các nước.

- Sáu là: Việc thành lập quỹ dự phòng tổn thất các khoản nợ là cần thiết, tuy nhiên tùy điều kiện cụ thể của mỗi nước, nguồn hình thành quỹ có thể trích từ quỹ hay thu nhập.

TÓM TẮT CHƯƠNG 1


Chương 1 trình bày các nội dung tổng quát liên quan đến chất lượng tín dụng như khái niệm, các yếu tố cấu thành hay các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tính dụng. Nội dung của chương cũng đã đề cập đến sự hài lòng của khác hàng, mô hình đánh giá và sựu cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng. Ngoài ra, kinh nghiệm của các NHTM cổ phần Việt nam cũng đã được xem xét, trên cơ sở đó, để nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng, các NHTM phải nhận thức rò được cách đánh giá chất lượng dịch vụ tín dụng cũng như các nhân tố nào ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ tín dụng của chính bản thân ngân hàng.

CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM CHI NHÁNH HUYỆN MINH HÓA BẮC QUẢNG BÌNH


2.1. Giới thiệu về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

chi nhánh huyện Minh Hóa Bắc Quảng Bình

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển

Tên pháp lý: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi

nhánh huyện Minh Hóa Bắc Quảng Bình.

Viết tắt Agribank chi nhánh huyện Minh Hóa Bắc Quảng Bình Tên thương hiệu 1

Viết tắt: Agribank chi nhánh huyện Minh Hóa Bắc Quảng Bình Tên thương hiệu: Agribank.

Logo:


Trụ sở tại: Tiểu khu 7, TT Quy Đạt, Huyện Minh Hoá, Tỉnh Quảng Bình.

Điện thoại: 0232.572.220 Fax: 0232.572.306

Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh mã số 0100686174-722 do phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Bình đăng ký lần đầu ngày 23/10/2013.

Mã số thuế: 0100686174-722.

Thực hiện sự nghiệp đổi mới của đất nước, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của Ngân hàng, ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định 53/HĐBT hình thành hệ thống Ngân hàng 2 cấp: Ngân hàng nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam.

Ngày 14/11/1990 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Đến ngày 5/10/1996 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định

280/QĐ-NH5 đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

Từ một chi nhánh mới được tổ chức lại tháng 7 năm 1989, nguồn vốn hạn hẹp với vài tỷ đồng và dư nợ tín dụng còn thấp, nay đã thành một Ngân hàng chủ lực có hàng ngàn tỷ đồng vốn tham gia vào tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ thúc đẩy kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển. Từ đội ngũ cán bộ đông nhưng trình độ, năng lực và kỹ thuật tác nghiệp thô sơ, non yếu, nay đã tin gọn bộ máy, tay nghề vững vàng, công nghệ thông tin, dịch vụ hiện đại, bắt nhịp với tầm phát triển của hệ thống trong nước và quốc tế.

Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT tỉnh Quảng Bình được thành lập theo quyết định 85/NH-QĐ ngày 06/09/1989 của Tổng giám đốc NHNN. Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Bắc Quảng Bình được tách ra từ Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Quảng Bình từ ngày 01/06/2017, trực thuộc Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam có các chi nhánh Ngân hàng cơ sở trực thuộc và triển khai các hoạt động theo mô hình tổ chức, nhiệm vụ vào các thời điểm trên.

Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam chi nhánh huyện Minh Hóa Bắc Quảng Bình là chi nhánh cấp II trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ Ngân hàng theo quy định và theo luật các tổ chức tín dụng.

Ngân hàng NN&PTNT huyện Minh Hóa thực hiện hầu hết các nghiệp vụ tài chính tiền tệ như: nhận tiền gửi và thanh toán, tín dụng, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, bảo hiểm, tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp và các dịch vụ khác (Rút tiền tự động ATM, thanh toán qua hệ thống POS, Thẻ tín dụng, Internet Banking, Mobile Banking…).

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng

Lãnh đạo cao nhất của chi nhánh là Giám đốc. Dưới sự lãnh đạo của Giám đốc có một phó Giám đốc và hai phòng nghiệp vụ: Phòng kế hoạch kinh doanh, phòng kế toán ngân quỹ. Hai phòng chuyên môn nghiệp vụ có chức năng chung là tham mưu, hỗ trợ cho Phó Giám đốc, Giám đốc trong quản lý, tổ chức hoạt động

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 01/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí