b. Khả năng sinh lời của các ngân hàng từ hoạt động tín dụng mang lại
Do hoạt đông tín dụng là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho NHTM nên chất lượng hoạt động tín dụng rất quan trọng, nó đóng vai trò quyết định trong việc tăng khả năng sinh lời của ngân hàng. Chất lượng hoạt động tín dụng tốt góp phần giảm tỷ lệ NQH, giảm rủi ro tín dụng ngân hàng giúp ngân hàng tránh được những tổn thất do hoạt động tín dụng đưa đến, những tổn thất này thường rất lớn, nếu chất lượng hoạt động tín dụng không được bảo đảm, ngân hàng có nguy cơ mất vốn và dẫn tới khả năng thua lỗ, phá sản. Chất lượng hoạt động tín dụng cho vay tốt cũng góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường giúp ngân hàng thu hút được càng nhiều khách hàng, tăng cường khả năng huy động vốn, tăng khả năng thu nhập thanh khoản, tăng khả năng sử dụng vốn, tăng dư nợ tín dụng, tăng thu nhập từ hoạt động tín dụng và các dịch vụ đi kèm như: dịch vụ chuyển tiền, thanh toán quốc tế, ngoại hối [14].
Nếu tổng hợp các quan điểm trên đây, chúng ta có một định nghĩa chung về chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp như sau: “Chất lượng tín dụng là khái niệm chỉ sự thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu vốn và dịch vụ khác của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đồng thời phải đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế”.
1.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng cho vay của NHTM
Tùy theo quan điểm nhìn nhận và góc độ phân tích trên các phương diện để xem xét các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng khác nhau, nhưng nhìn chung khi đánh giá chất lượng tín dụng người ta thường dùng các chỉ tiêu định tính và định lượng.
1.3.5.1. Chỉ tiêu định tính
Là những chỉ tiêu mang tính tương đối, rất khó xác định thường được dùng để đánh giá chất lượng tín dụng một cách khái quát.
Thứ nhất, đó là việc đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc cho vay nhằm hạn chế đến mức tối đa rủi ro cho ngân hàng và thực hiện tốt các chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Thứ hai, đó là uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, sự hài lòng của khách hàng đối với các sản phẩm tín dụng mà ngân hàng cung cấp về quy mô, lãi suất, phí, thời gian phục vụ…
Thứ ba, là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng, khả năng ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong quá trình cung cấp tín dụng nhằm rút ngắn thời gian phục vụ nhưng vẫn đảm bảo thu thập, lưu trữ đầy đủ thông tin để giúp ngân hàng có thể khai thác, phát hiện và ngăn ngừa rủi ro.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Minh Hóa Bắc Quảng Bình - 2
- Tín Dụng Ngân Hàng Là Công Cụ Tài Trợ Vốn Có Hiệu Quả
- Các Yếu Tố Cấu Thành Chất Lượng Tín Dụng Của Nhtm
- Sự Cần Thiết Phải Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Cho Vay
- Bộ Máy Tổ Chức Của Agribank Chi Nhánh Huyện Minh Hóa Chú Thích:
- Tỷ Lệ Nợ Xấu Của Agribank Chi Nhánh Huyện Minh Hóa
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Thứ tư, phối hợp tốt với các cơ quan chức năng như: công chứng, trung tâm đăng ký giao dịch đảm bảo, các tổ chức, đoàn thể để làm tốt công tác cho vay.
Thứ năm, được khách hàng đánh giá vốn tín dụng mà họ sử dụng mang lại
hiệu quả trong SXKD.
Do chỉ tiêu đánh giá rất khó xác định, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng và người quản lý cũng như các mối quan hệ của họ với khách hàng vì vậy trên thực tế khi nói đến chất lượng tín dụng thường người ta chú ý nhiều đến các chỉ tiêu mang tính định lượng.
1.3.5.2. Các chỉ tiêu khác
a. Chỉ tiêu tổng dư nợ
Dư nợ cho vay (DNCV) đối với các phản ánh quy mô vốn ngân hàng cho vay tại một thời điểm. Thông qua chỉ tiêu này, chúng ta có thể biết quy mô vốn vay đối ở các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng của dư nợ cho vay (%) phản ánh khả năng mở rộng quy mô cho vay của Ngân hàng qua các năm [4].
DNCV (năm n)-DNCV (năm n-1)
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay = *100% DVCV (năm n-1)
Nếu chỉ tiêu dư nợ cao cùng với tốc độ tăng trưởng qua các năm là dương (>0) thì điều này phản ánh sản phẩm cho vay mà ngân hàng cung ứng thực sự thu hút và lôi cuốn được khách. Qua đây, có thể thấy nhu cầu về vốn ngày càng được ngân hàng đáp ứng nhiều hơn. Tuy nhiên, dư nợ cao chưa hoàn toàn cho chúng ta biết chất lượng cho vay đã là tốt. Vì vậy, để phản ánh đầy đủ chất lượng cho vay cần phải sử dụng thêm các chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn
b. Chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn
Mức độ an toàn của hoạt động cho vay được phản ánh qua chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, do đó tỷ lệ này là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng cho vay. Người ta tính tỷ lệ này như sau [14]:
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn cao phản ánh một phần chất lượng cho vay của ngân hàng là thấp. Khả năng thu hồi vốn có vấn đề sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Nếu nợ quá hạn cao vượt quá khả năng bù đắp thì có thể làm cho ngân hàng phá sản. Tuy nhiên, chúng ta không thể kết luận chất lượng cho vay là cao nếu chỉ tính riêng tỷ lệ này thấp, bởi vì có thể ngân hàng đang theo đuổi một chính sách cho vay an toàn, ít rủi ro, tức là không mở rộng cho vay. Điều này đồng nghĩa với việc các NHTM cũng sẽ thu ít lợi nhuận hơn từ hoạt động cho vay. Chính vì thế, để đánh giá chất lượng cho vay chính xác cần phải kết hợp với hai chỉ tiêu ở trên: dư nợ và doanh số cho vay.
Đối với các khoản nợ quá hạn này, các ngân hàng thương mại có thể xem xét nguyên nhân phát sinh để tiến hành gia hạn nợ. Điều này vừa giảm áp lực trả nợ vừa giúp ngân hàng có thể thu hồi được vốn cho vay. Tuy nhiên, thời gian gia hạn với khoản nợ quá hạn phải hợp lý nếu không nguy cơ mất vốn càng cao. Do đó, để đánh giá chất lượng cho vay cần xem xét chỉ tiêu khả năng thu hồi nợ quá hạn đối với doanh nghiệp này.
c. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Chỉ tiêu này được tính theo công thức dưới đây.
Hiệu suất sử dụng vốn = Tổng dư nợ/ tổng vốn huy động.
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ vốn cho vay trong tổng nguồn vốn huy động. Nó xem xét, đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng về vốn của bản thân ngân hàng cũng như của nền kinh tế hay chưa.
d. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong đáp ứng nhu cầu khách hàng:
Vòng quay vốn Doanh số thu nợ
=
x 100%
tín dụng Dư nợ tín dụng
Chỉ số này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của chi nhánh nhanh hay chậm, chỉ số này càng lớn chứng tỏ hoạt động tín dụng hiệu quả, có khả năng kiểm soát nợ tốt, công tác thu nợ tốt, hiệu quả sử dụng vốn cao
e. Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay
Hoạt động tín dụng tuy chứa nhiều rủi ro nhưng là hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân hàng. Do vậy, chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động cho vay là chỉ tiêu cần thiết để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại. Chính vì vậy, ngoài việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng còn phải tăng được thu nhập từ hoạt động cho vay.
1.3.6. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng cho vay tại NHTM
Bản thân bên trong các NHTM có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới các khía cạnh khác nhau của chất lượng tín dụng. Sau đây là một số nhân tố quan trọng cần được quan tâm xem xét:
a. Chiến lược kinh doanh dài hạn
Chiến lược kinh doanh dài hạn là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM. Nếu không có chiến lược kinh doanh cụ thể cho từng giai đoạn, từng thời kỳ Ngân hàng sẽ luôn luôn bị động. Chỉ trên cơ sở vạch ra những kế hoạch hoạt động đúng đắn cho các bộ phận trong từng thời kỳ mới đảm bảo thực hiện mục tiêu đề ra. Đặc biệt, các kế hoạch bộ phận ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động cho vay: kế hoạch Marketing, kế hoạch phát triển nhân sự...[2]
b. Công tác tổ chức Ngân hàng
Tổ chức của Ngân hàng được sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban chức năng sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, giúp Ngân hàng theo dòi, quản lý chặt chẽ các khoản cho vay và các khoản huy động vốn. Đây chính là cơ sở để tiến hành các hoạt động cho vay lành mạnh và quản lý có hiệu quả các khoản vay [4].
c. Quy mô vốn của Ngân hàng
Sức mạnh của Ngân hàng thể hiện quy mô vốn tự có của nó. Vốn chủ sở hữu càng nhiều chứng tỏ Ngân hàng đó càng mạnh và có thể phát triển hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực mà không bị hạn chế. Hiện nay, ở các nước trên thế giới các ngân hàng thương mại (NHTM) chỉ được phép cho vay đối với một khách hàng trongmột giới hạn nào đó trên vốn tự có của các NHTM tuỳ theo quy định mỗi nước. Do đó, nếu gia tăng quy mô vốn chủ sở hữu Ngân hàng không những có thể phát triển hoạt động tín dụng về quy mô mà còn có thể hạn chế bớt rủi ro liên quan xảy ra bởi vì vốn chủ sở hữu như một tấm lá chắn an toàn giúp NHTM đứng vững trước các tổn thất không thu hồi các khoản cho vay. Vì vậy, tăng quy mô vốn điều lệ hiện nay đang là xu thế phát triển của hầu hết NHTM, điều này quyết định đến khả năng cạnh tranh của các NHTM trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính nói chung và đáp ứng nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp nói riêng trong nền kinh tế [4].
d. Chính sách và quy trình cho vay
Chính sách cho vay là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động cho vay đi đúng hướng và phát triển, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một NHTM. Một chính sách tín dụng cho vay đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng nói chung và cho vay nói riêng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của ngân hàng nhà nước đảm bảo công bằng xã hội. Điều đó cho thấy chất lượng hoạt động tín dụng phụ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của NHTM có đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tế của thị trường cũng như Ngân hàng hay không.
Đối với một ngân hàng, quy định cho vay với một khách hàng không quá một giới
hạn nào đó cũng tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng cho vay [4].
Có thể nói, quy trình cho vay là một phần quan trọng bên cạnh chính sách cho vay bởi vì nó cụ thể hoá các vấn đề chính trong chính sách cho vay thông qua các bước thực hiện bắt đầu từ chuẩn bị cho vay, phát triển vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi nợ. Chất lượng tín dụng có được đảm bảo an toàn hay không tuỳ thuộc vào thực hiện tốt hay không các quy định, các bước của quy trình nghiệp vụ cho vay và phối hợp các bước đó với nhau. Hoạt động cho vay có nhiều rủi ro. Chính vì thế, nâng cao công tác thẩm định trước, trong và sau khi cho vay trong quy trình tín dụng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng hoạt động tín dụng.Chính sách tín dụng kết hợp với quy trình tín dụng là nhân tố trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp trong nước [2].
e. Công tác kiểm tra và kiểm soát tín dụng cho vay
Công tác kiểm tra và kiểm soát tín dụng nói chung và cho vay nói riêng tác động quan trọng đến chất lượng tín dụng của các NHTM. Đây là biện pháp giúp cho Ban lãnh đạo ngân hàng có được những thông tin về tình hình kinh doanh của ngân hàng cũng như của khách hàng vay nhằm duy trì có hiệu quả hoạt động cho vay đang được xúc tiến, phù hợp với chính sách tín dụng mà cụ thể với chính sách cho vay, thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Trong lĩnh vực tín dụng, hoạt động kiểm tra, kiểm soát bao gồm:
Kiểm tra chính sách tín dụng cho vay và các thủ tục có liên quan đến các khoản vay (thẩm quyền điều hành, quản lý, giám sát các khoản vay, hồ sơ, thủ tục cho vay).
Kiểm tra định kỳ, đột xuất kiểm tra nội bộ hoặc do Hội đồng kiểm tra, giám sát thực hiện, báo cáo các trường hợp ngoại lệ, những vi phạm chính sách, quy trình nghiệp vụ, kiểm tra các hoạt động liên quan đến tín dụng đặc biệt là hoạt động cho vay.
Bên cạnh đó, muốn công tác kiểm tra đánh giá có hiệu quả đòi hỏi cán bộ kiểm tra và kiểm soát phải có trình độ giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực và khách quan.
f. Hệ thống thông tin cho vay
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, thông tin là nhân tố có tính chất quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Đối với các NHTM, các thông tin kinh tế trong mọi lĩnh vực liên quan đến hoạt động của Ngân hàng lại có ý nghĩa quan trọng hơn nữa đặt biệt đối với hoạt động cho vay bởi đây là hoạt động nhạy cảm với các luồng thông tin trong nền kinh tế. Số lượng và chất lượng thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của khách hàng sẽ quyết định độ chính xác trong việc phân tích, nhận định, đánh giá thị trường và khách hàng. Điều này giúp cho cán bộ tín dụng cho vay đưa ra quyết định cho vay kịp thời và sáng suốt, không làm lỡ mất cơ hội đầu tư. Với các doanh nghiệp lớn, ngân hàng có thể dễ dàng tìm hiểu thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh trước khi cho vay. Nhưng với các doanh nghiệp ở nước ta nguồn thông tin khó tiếp cận, không rò ràngthậm chí không có thông tin đảm bảo về doanh nghiệp xin vay vốn nhất là ở các nước đang phát triển. Chính vì thế, để nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro và chất lượng cho vay thì thông tin tín dụng về khách hàng doanh nghiệp này phải được thu thập đầy đủ từ nhiều nguồn, khách quan, chính xác và nhanh chóng kịp thời.
g. Phẩm chất và trình độ của CBTD và cán bộ quản lý tín dụng cho vay
Trong mọi hoạt động, dù công nghệ kỹ thuật áp dụng ngày càng hiện đại, vai trò của con người không thể phủ nhận bởi chỉ con người mới có khả năng sáng tạo, tạo ra sự phát triển đột biến. Đối với ngân hàng mà nói, con người là một nhân tố quyết định đến sự thành bại trong các hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động cho vay của nó. Chất lượng nhân sự ngày càng được đòi hỏi cao để có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh đặc biệt môi trường kinh doanh của khách hàng, từ đó tác động đến sự đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động cho vay. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, giỏi về năng lực quản lý cũng như chuyên môn (có năng lực phân tích tín dụng, đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án cho vay, đánh giá tài sản bảo đảm để cho vay, giám sát khoản vay...) sẽ giúp Ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm đáng tiếc có thể xảy ra trong hoạt động cho vay.
1.4. Sự hài lòng của khách hàng
Sự thỏa mãn của khách hàng là một trong những nhân tố chính mang lại thành công cho ngân hàng và cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá, phản ánh chất lượng dịch vụ tín dụng của ngân hàng. Vì chỉ khi chất lượng dịch vụ tín dụng của ngân hàng tốt mới làm khách hàng hài lòng, từ đó khách hàng sẽ gắn bó hơn với ngân hàng, sử dụng nhiều dịch vụ tín dụng hơn và giúp ngân hàng phát triển hơn.
Nói chung, sự hài lòng của khách hàng bao hàm cả chất lượng dịch vụ tín dụng, chất lượng dịch vụ tín dụng được xem như là một yếu tố tác động vào sự hài lòng của khách hàng. Lý do là chất lượng liên quan đến việc cung cấp dịch vụ, còn sự hài lòng chỉ đánh giá được sau khi sử dụng dịch vụ. Theo Zeithaml & Bitner (2000) thì sự hài lòng của khách hàng nói lên sự thỏa mãn của khách hàng khi sử dụng dịch vụ, còn chất lượng dịch vụ là quan tâm đến thành phần cụ thể của dịch vụ. Cronin & Taylor (1992) thì cho rằng chất lượng dịch vụ là tiền đề của sự hài lòng của khách hàng. Do đó, chất lượng dịch vụ tín dụng và sự hài lòng của khách hàng là hai vấn đề tách biệt nhau nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu chất lượng được cải thiện nhưng không dựa trên nhu cầu của khách hàng thì sẽ không làm khách hàng thỏa mãn với dịch vụ. Như vậy, khi sử dụng dịch vụ, nếu khách hàng cảm nhận được dịch vụ có chất lượng cao thì họ sẽ hài lòng. Ngược lại, nếu khách hàng cảm nhận dịch vụ có chất lượng thấp thì học sẽ không hài lòng.
Đây mới là sự đánh giá chính xác nhất, vì các nhà cung cấp tín dụng luôn nghĩ mình là đơn vị có dịch vụ tốt nhất, nhưng rò ràng đánh giá khách quan nhất vẫn là sự đánh giá của khách hàng đã tiếp cận dịch vụ - Những người tiếp cận và ĐƯỢC VAY và Những người tiếp cận ngân hàng nhưng KHÔNG VAY ĐƯỢC.
Dựa trên những vấn đề cơ sở lý luận trên, phương pháp tổng hợp tài liệu cho thấy – có nhiều mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ tín dụng khác nhau, trong đó mô hình SERVQUAL là phù hợp và đầy đủ nhất. Bời vì, theo mô hình này SERVQUAL đánh gia chất lượng dịch vụ Ngân hàng dựa trên 5 nhóm vấn đề sau [4]: