Nâng Cao Chất Lượng Thu Thập Thông Tin

3.3.1.1.1. Nâng cao chất lượng thu thập thông tin

Bất kỳ một tổ chức tín dụng nào khi cho vay với doanh nghiệp đều cần phải có thông tin về doanh nghiệp đó. Các thông tin mà các tổ chức tín dụng quan tâm là hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp, kết quả sản xuất kinh doanh và đặc biệt quan trọng là lịch sử vay vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đã từng vay nợ bao nhiêu lần, số lượng bao nhiêu, quan hệ vay trả như thế nào, hiệu quả sử dụng vốn vay... để từ đó ngân hàng có thể đưa ra quyết định đúng đắn. Như vậy thông tin là đầu vào của việc thẩm định. Thẩm định có kết quả cao hay không phụ thuộc phần lớn vào chất lượng thu thập thông tin đầu vào. Vì vậy cần có các giải pháp thích hợp để nâng cao chất lượng công tác này.

Ngoài những thông tin về khách hàng, các ngân hàng cần có những thông tin về thị trường, môi trường chính trị, môi trường kinh tế cũng như những thông tin về lĩnh vực mà người vay hoạt động. Khả năng phát triển hay suy thoái của ngành trong thời gian tới quyết định lớn đến thành công của doanh nghiệp. Các thông tin này cần thu thập đầy đủ chính xác mới có thể đưa ra các quyết định đúng đắn. Thông tin có thể lấy từ nhiều nguồn như từ chính khách hàng, từ trung tâm thông tin tín dụng, từ chủ nợ khác của doanh nghiệp...

- Thông tin trực tiếp: khi khách hàng đến vay vốn, người xem xét hồ sơ sẽ đặt ra những câu hỏi mang tính chất phỏng vấn trực tiếp. Chính cuộc phỏng vấn trực tiếp này sẽ giúp cán bộ tín dụng nhạy cảm nắm bắt được những vấn đề cần quan tâm. Đôi khi dự án được trình bày rất rõ ràng trên giấy tờ nhưng trước thái độ lúng túng không nắm được quy trình, không nắm rõ mục đích thực hiện dự án cũng làm cho cán bộ tín dụng rút ra những kết luận hợp lý. Qua phỏng vấn cán bộ tín dụng có thể nắm được lý do xin vay, nguồn xin vay có đáp ứng được những đòi hỏi khác nhau của ngân hàng hay không, thông tin về lĩnh vực hoạt động của người vay, cơ cấu tổ chức, lịch sử xu hướng phát triển...Bên cạnh phỏng vấn trực tiếp thì cán bộ tín dụng phải tiến hành

điều tra nơi hoạt động kinh doanh của người vay. Các doanh nghiệp khi vay vốn phải cho phép cán bộ tín dụng đến thăm hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Công việc này hoàn toàn không đơn giản. Nó đòi hỏi cán bộ cho vay phải có trình độ về nghiệp vụ cũng như các lĩnh vực khác có như vậy mới biết được những thông tin đáng kể về mức độ phát triển cũng như trình độ quản lý của doanh nghiệp thông qua tài sản của họ và phỏng vấn các viên chức quản lý. Qua việc đi khảo sát, cán bộ tín dụng có điều kiện kiểm tra lại các thông tin thu thập từ phỏng vấn. Trong bộ hồ sơ vay vốn thì các doanh nghiệp đều phải trình cho ngân hàng các báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp cần cung cấp là bảng tổng kết tài sản, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,... tuy nhiên cán bộ cho vay cần lưu ý về độ trung thực của các báo cáo này. Đối với các DNV&N thì hầu hết các báo cáo này không có xác nhận của kiểm toán do vậy độ trung thực là không cao đòi hỏi cán bộ cho vay cần xem xét kĩ lưỡng để đánh giá chính xác về khách hàng.

- Lấy thông tin từ các Ngân hàng bạn: thông thường, một doanh nghiệp không chỉ có quan hệ với một ngân hàng mà có quan hệ với nhiều bạn hàng, nhiều Ngân hàng. Với mỗi ngân hàng, doanh nghiệp phải cung cấp một số lượng thông tin nhất định tuỳ theo yêu cầu của mỗi ngân hàng. Do vậy để có cái nhìn tổng thể hơn về doanh nghiệp, mỗi ngân hàng có thể thu thập thông tin từ ngân hàng bạn như quan hệ vay trả có sòng phẳng không, hoàn trả nợ có đúng hạn không, uy tín của doanh nghiệp ra sao. Bên cạnh đó, thông qua các bạn hàng cung cấp hoặc tiêu thụ có thể đánh giá được doanh nghiệp có giao hàng đúng về số lượng, chất lượng hay không, giá cả ra sao, yếu tố đầu vào có ổn định hay không. Cán bộ cho vay phải hết sức chú ý vấn đề trên.

- Nguồn thông tin khác: thông qua cơ quan chủ quản, bộ chức năng, ngân hàng có thể nắm được thông tin về cung cầu sản phẩm trên thị trường, chính sách phát triển của ngành. Từ đó xây dựng các tiêu chuẩn trong ngành

và trong toàn nền kinh tế để làm căn cứ so sánh, đánh giá phân tích, chấm điểm tín dụng. Ngoài ra còn có thể thông qua sách báo, phương tiện thông tin đại chúng để thu thập thông tin về khách hàng.

Việc thu thập thông tin không chỉ tính đến yếu tố chính xác tin cậy mà còn phải tính đến chi phí để có được các thông tin đó thì hoạt động cho vay mới mang lại thu nhập cho NH.

Ngoài ra, các NH cần thiết lập một hệ thống lưu trữ thông tin riêng bằng cách xây dựng một hệ thống chuyên nghiên cứu dự báo thông tin phục vụ trực tiếp cho ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

3.3.1.1.2. Nâng cao chất lượng xử lý thông tin

Thông tin thu được thường mang tính chất đa chiều vì vậy cần xử lý theo cách thức khác nhau để đưa ra những kết luận hợp lý. Các thông tin mà mỗi ngân hàng thu thập được hầu hết là ở trong quá khứ và các số liệu thường mang tính chất thời điểm. Nếu là các phương án sản xuất kinh doanh thì lại là các dự đoán trong tương lai. Do vậy khi phân tích, mỗi ngân hàng phải xem xét doanh nghiệp trong trạng thái động. Tức là ngân hàng cần phải phân tích tỷ lệ qua các năm, so sánh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành để tìm hiểu xu hướng phát triển trong ngành. Từ đó mỗi ngân hàng sẽ đánh giá được rủi ro cũng như hiệu quả của dự án mang lại.

Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ - 11

Khi thẩm định, cán bộ tín dụng nên tập trung vào phân tích tài chính của khách hàng cũng như tài chính của dự án xin vay. NH nên đưa ra tiêu chuẩn để thẩm định như tiêu chuẩn phân tích khách hàng 6 C. Các ngân hàng nên lượng hoá các chỉ tiêu bằng cách chấm điểm cho từng khách hàng. Mặc dù ngân hàng đã áp dụng hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nhưng các chỉ tiêu này còn chưa thực sự cụ thể và các cán bộ tín dụng cũng chưa có nhận thức đúng đắn về việc này. Bên cạnh việc phân tích định lượng thì phân tích định tính cũng hết sức quan trọng. Cho vay DNV&N có những điểm khác biệt so với cho vay doanh nghiệp lớn ở chỗ quy mô vay

không lớn, số lượng món vay nhiều, chi phí nghiệp vụ và rủi ro cao nên mỗi ngân hàng cần ban hành quy trình cho vay phù hợp. Cán bộ tín dụng khi phân tích hồ sơ cho vay ngoài các thông tin mang tính chất định lượng còn đặc biệt chú ý yếu tố pháp lý của hồ sơ vay vốn như phân tích đánh giá tư cách của người vay, khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp...

3.3.1.2. Đa dạng hoá các phương thức cho vay

Có rất nhiều hình thức cho vay ngắn hạn như thấu chi, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay từng lần. Nhưng hiện tại ở các ngân hàng vẫn phổ biến chỉ sử dụng cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Hình thức cho vay từng lần là hình thức được nhiều NH áp dụng phổ biến nhất nhưng đây là hình thức cho vay không có hiệu quả cao vì chi phí cho mỗi lần vay lớn đồng thời tạo ra cho khách hàng những thủ tục khá phiền hà. Đối với các DNV&N, ngân hàng thường chỉ áp dụng cho vay từng lần do đó chất lượng cho vay ngắn hạn thường không cao. Trong khi đó các hình thức cho vay như thấu chi, cho vay luân chuyển là hai hình thức cho vay ngắn hạn được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và hiệu quả của hai phương thức này rất cao. Mỗi ngân hàng nên áp dụng hai phương thức này trong cho vay ngắn hạn.

Hiện nay nhiều ngân hàng đang áp dụng cho vay từng lần. Hình thức này chỉ nên áp dụng với những khách hàng mới, độ tin cậy đối với họ chưa cao. Tuy nhiên đối với những khách hàng đã quan hệ lâu dài với NH thì phương thức này quả thực không hiệu quả vì nó tốn rất nhiều thời gian, chi phí của khách hàng cũng như của ngân hàng. Bên cạnh đó nhiều ngân hàng cũng đã áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức. Đối với phương thức này thì khách hàng chủ động hơn trong việc sử dụng vốn do việc tính toán hạn mức đã được cán bộ tín dụng và doanh nghiệp tính ngay từ đầu kì nhưng việc kiểm soát các món vay thường khó khăn hơn đối với NH vì các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể do vậy dễ dẫn đến rủi ro cho NH.

Trong khi đó cho vay luân chuyển thì đòi hỏi người vay phải xuất trình các giấy tờ hợp pháp, hợp lệ về hàng hoá đã nhập thì mới xuất khoản cho vay . Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng.

Thấu chi là hình thức cho vay cũng có rất nhiều ưu điểm nhưng hầu như chưa được áp dụng rộng rãi trong hệ thống các NHTM Việt Nam. Kĩ thuật thấu chi thường dành cho khách hàng sử dụng tài khoản một cách linh hoạt và chủ động. Đối với khách hàng có năng lực tài chính mạnh, tài khoản tiền gửi phát sinh thường xuyên, đồng thời phát sinh nợ chỉ trong thời gian ngắn khi đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng tài khoản vãng lai. Khi tài khoản này dư nợ thì ngân hàng là chủ nợ còn khi tài khoản này dư có thì khách hàng là chủ nợ. Đây là hình thức cho vay ngắn hạn khá linh hoạt nhưng mức độ rủi ro không phải là thấp. Tuy nhiên, mỗi Ngân hàng cũng nên chọn ra một số DNV&N đủ yêu cầu để áp dụng hình thức này vì nó thuận tiện cho cả khách hàng cũng như ngân hàng.

Một phương thức cho vay hiệu quả khác là cho vay ứng trước căn cứ vào giá trị của giấy tờ có giá. Đây thực chất là chiết khấu giấy tờ có giá mà chủ yếu là thương phiếu. Hình thức cấp tín dụng ngắn hạn này thường rủi ro ít vì có ba bên chịu trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng vì nếu ngân hàng không thu hồi được tiền từ người phát hành thì có thể thu hồi những người liên quan hoặc nếu ngân hàng không nắm thương phiếu đến hạn thanh toán có thể đem chiết khấu tại NHNN. Hơn nữa thương phiếu thường có tính thanh khoản cao, thời hạn ngắn, an toàn. Các NH nên áp dụng hình thức cho vay này. Để đạt được hiệu quả cao nhất từ hình thức cho vay này NH nên thẩm định, đánh giá quan hệ thương mại hình thành nên thương phiếu, điều kiện, tư cách của những người ký tên trên thương phiếu đồng thời cũng phải xác định chi phí chiết khấu đối với từng loại như vậy sẽ đảm bảo thoả mãn yêu cầu vay vốn của khách cũng như đảm bảo an toàn trong khoản cho vay của NH.

Việc đa dạng hoá các sản phẩm phù hợp đối với đối tượng khách hàng DNV&N phải thực hiện trên 2 phương hướng. Thứ nhất là thiết kế lại sản phẩm hiện có cho phù hợp với DNV&N và nghiên cứu phát triển sản phẩm mới thông qua điều tra nhu cầu khách hàng, khảo sát, học tập kinh nghiệm của các ngân hàng khác.

3.3.1.3. Xây dựng chính sách cho vay phù hợp với DNV&N:

Hiện nay ở hầu hết các NH thì việc cho vay giữa DNV&N và các thành phần kinh tế khác là không có sự khác biệt. Chính điều này đã gây nhiều bất lợi cho các DNV&N dẫn đến dư nợ mất cân đối giữa DNV&N và doanh nghiệp lớn. Để nâng cao chất lượng cần đổi mới cơ chế cho vay theo các hướng sau.

- Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt: Lãi suất cho vay là giá cả tín dụng và cũng là cái giá mà doanh nghiệp phải trả để có thể sử dụng vốn vay. Lãi suất chính là chi phí sản xuất của doanh nghiệp vì vậy khi đi vay các doanh nghiệp đều quan tâm hàng đầu đến lãi suất bởi nó sẽ quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy mỗi ngân hàng nên có chính sách lãi suất hợp lý đối với DNV&N. Chính sách hợp lý tức là lãi suất phải dựa trên sự tín nhiệm của doanh nghiệp cũng như xu hướng sản xuất kinh doanh trên thị trường.

- Cải tiến điều kiện cho vay: Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì tổ chức tín dụng xem xét và cấp tín dụng cho các khách hàng phải có các điều kiện như phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết, có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, đồng thời phải thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay. Như vậy điều kiện cuối cùng và cũng rất quan trọng là bảo đảm tiền vay. Tài sản thế chấp luôn là vấn đề nan giải đối với các DNV&N vì qui mô vốn của các DNV&N thường thấp, khả năng tự tài trợ không cao. Thực tế tài sản thế chấp không

phải là vật bảo đảm duy nhất cho món vay mà nó là thủ tục có tính răn đe nhiều hơn. Sự thành công trong kinh doanh của khách hàng mới đảm bảo cho khoản vay được hoàn trả và đây cũng chính là mong đợi của mỗi NH. Do vậy mỗi NH nên linh hoạt trong việc cho vay dựa trên thực trạng doanh nghiệp, thẩm định chắc chắn dự án. Vì đôi khi doanh nghiệp xảy ra rủi ro không trả được nợ mà có tài sản thế chấp thì không phải là ngân hàng đã hết rủi ro vì khả năng phát mại tài sản thế chấp phụ thuộc vào tính thị trường của tài sản thế chấp. Tuy nhiên tài sản thế chấp đôi lúc cũng rất cần thiết. Để tài sản thế chấp thực sự là nguồn thu thứ hai của NH thì mỗi ngân hàng cần xác định đầy đủ các điều kiện của tài sản đem ra làm thế chấp, xác định tương quan giữa mức cho vay và tài sản đảm bảo tức là phải điều chỉnh mức tín dụng nhỏ hơn giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm cấp tín dụng cũng như phải điều chỉnh dư nợ tín dụng theo mức giảm giá của tài sản thế chấp. Nó góp phần làm nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp. Nhưng để đạt được hiệu quả cao nhất thì từng NH cần lựa chọn các hình thức phù hợp như vừa thế chấp vừa tín chấp hoặc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản đảm bảo. Đối với trường hợp dùng tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản thế chấp thì các NH cần giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay. Thiết nghĩ, các NH có thể nới lỏng các điều kiện về thế chấp một khi nắm được các thông tin đầy đủ và chính xác về khách hàng. Các khoản cho vay như vậy chứng tỏ trình độ phân tích, quản lý khoản cho vay của mỗi ngân hàng và năng lực cạnh tranh trên thị trường.

- Thủ tục vay vốn: có rất nhiều khách hàng phàn nàn về thủ tục vay vốn của các Ngân Hàng do Nhà nước nắm giữ hiện nay. Để hoàn thành được một bộ hồ sơ khách hàng phải đáp ứng rất nhiều loại giấy tờ đặc biệt các DNV&N thì lại càng yêu cầu nhiều hơn và cụ thể hơn. Trong khi nguồn vay ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu vốn thời vụ và nhu cầu vốn thường xuyên và thời hạn sử dụng vốn vay ngắn mà các thủ tục kéo dài đôi khi làm lỡ cơ hội kinh

doanh của khách hàng. Do đó để nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn mỗi ngân hàng cần nghiên cứu để đơn giản hoá thủ tục vay vốn để tiết kiệm thời gian cũng như chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng.

3.3.1.4. Đảm bảo tốt hơn quy trình cho vay

Quy trình cho vay được quy định và hướng dẫn cụ thể trong Sổ tay tín dụng. Đó là một qui trình được thực hiện rất chặt chẽ và được tính từ khi ngân hàng tiếp nhận hồ sơ xin vay đến khi giải chấp tài sản. Toàn bộ quy trình này đều hướng đến để hoạt động cho vay của NH được an toàn hơn. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng cũng cần linh hoạt trong việc áp dụng qui trình vào những điều kiện cụ thể. Đối với những khách hàng có quan hệ tín dụng lần đầu thì cán bộ tín dụng cần hướng dẫn đầy đủ, kỹ lưỡng các bước trong quy trình để đảm bảo khách hàng hiểu rõ và thực hiện đầy đủ các yêu cầu của ngân hàng đồng thời khi khách hàng đã trở thành khách hàng có quan hệ tín dụng lâu dài với ngân hàng thì ngân hàng có thể kế thừa các bước như thu thập và điều tra thông tin.

Trong cho vay ngắn hạn thì thời gian và thời cơ là yếu tố quan trọng. Do vậy cần áp dụng quy trình linh hoạt vừa đảm bảo đáp ứng được các quy định vừa giảm nhẹ thời gian và chi phí không cần thiết. Một quy trình tín dụng tốt tức là quy trình đó phải tốt ở từng bước của quy trình và bước sau phải có sự kế thừa của bước trước. Do đó để có được các quyết định cho vay đúng đắn, tạo điều kiện tối đa cho khách hàng và đồng thời phải đảm bảo sinh lợi cho khách hàng thì cần phải có một quy trình cho vay chặt chẽ mà linh hoạt. Như vậy chất lượng cho vay được nâng cao. Hơn nữa khi khách hàng đã hoàn thành việc đáp ứng các yêu cầu trong qui trình mà NH đòi hỏi thì thời gian để NH trả lời quyết định có cho vay hay không là 7 ngày. Thời gian như vậy là hơi dài các NH nên xem xét để rút ngắn lại sao cho hợp lý hơn.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 09/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí