hàng được an toàn và đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên không phải tất cả mọi người đều hiểu và có thể làm đúng để đáp ứng các yêu cầu mà qui trình đòi hỏi nhất là người quản lý của DNV&N. Họ có kiến thức rất hạn chế về quản lý kinh tế cũng như sự am hiểu về quy chế của ngân hàng. Nếu cán bộ tín dụng không hướng dẫn, giúp đỡ họ để họ lập phương án, dự án cũng như các công việc khác cần phải làm và làm như thế nào thì sẽ gây khó khăn cho họ. Có những người phải đi đi lại lại ngân hàng rất nhiều lần mới có thể hoàn thành được thủ tục vay vốn và như vậy sẽ làm cho họ không hài lòng và kêu ca về thủ tục của ngân hàng.
+ Phương thức cho vay ngắn hạn chưa đa dạng; hiện nay chi nhánh chỉ tập trung vào hai phương thức cho vay chủ yếu là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Hai phương thức cho vay này có nhiều hạn chế. Vì đối với cho vay từng lần thì mỗi lần vay khách hàng phải làm một hồ sơ vay vốn riêng biệt. Nó chỉ nên được áp dụng đối với những DNV&N mới quan hệ tín dụng lần đầu. Còn cho vay theo hạn mức thì yêu cầu của ngân hàng rất khắt khe. Những DNV&N phải là doanh nghiệp có uy tín, có quan hệ tín dụng lành mạnh, hoạt động có lãi liên tục 3 năm liền và phải có kiểm toán mới được cho vay hạn mức. Do vậy gây nhiều khó khăn cho khách hàng.
+ Trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế về năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp; phòng thẩm định của chi nhánh mới được thành lập từ tháng 6/2006 nên trước thời điểm này một số cán bộ trong phòng khách hàng đảm nhận công việc thẩm định. Như vậy tính chuyên môn hoá trong công việc không cao. Mặc dù cán bộ trong phòng tín dụng đều có trình độ đại học trở lên và một số người cũng có khá nhiều kinh nghiệm nhưng vẫn còn nhiều người còn khá trẻ. Cán bộ trẻ cũng có một số ưu điểm là nhiệt tình, năng động nhưng kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên đôi khi nhìn nhận và đánh giá khách hàng chưa thực sự xác thực. Bên cạnh đó đạo đức của cán bộ tín dụng cũng là vấn đề đáng quan tâm. Cán bộ tín dụng là người trực tiếp hướng dẫn
khách hàng vay vốn và quản lý dư nợ. Nên đôi khi vì cái lợi trước mắt mà cán bộ tín dụng đã bị khách hàng mua chuộc dẫn đến làm sai lệch các thông tin về khách hàng để đảm bảo khách hàng có thể vay được vốn như đánh giá cao hơn giá thị trường về tài sản đảm bảo. Như vậy là rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra.
+ Thông tin về khách hàng vừa thiếu vừa không cập nhật đôi khi còn không chính xác; cán bộ tín dụng đôi khi còn rất thụ động trong việc tìm kiếm thông tin về khách hàng. Họ thường thụ động và xem xét những thông tin do khách hàng mang đến thông qua các báo cáo tài chính. Mà các thông tin ở các báo cáo này thường đã được làm đẹp lên rất nhiều trước khi đưa đến ngân hàng. Khách hàng phải làm đẹp báo cáo tài chính vì nguyên tắc của ngân hàng là chỉ tài trợ cho những DNV&N hoạt động kinh doanh có lãi trong những kì trước đó.. Trong vài năm gần đây thì NHNN đã thành lập trung tâm thông tin tín dụng. Trung tâm này qua thời gian hoạt động đã có nhiều tiến bộ như thông tin cung cấp đã đa dạng và cập nhật hơn. Bất kì một khách hàng nào khi có quan hệ tín dụng với ngân hàng đều có thông tin trên đó về tình hình dư nợ, dùng tài sản đảm bảo nào hay đang quan hệ với những ngân hàng nào. Vấn đề đặt ra ở đây là cán bộ tín dụng chưa thực sự nhìn nhận đây là nguồn thông tin quan trọng. Và thông tin ở trung tâm này cũng chưa phản ánh được tình trạng khách hàng sử dụng nguồn vay ở ngân hàng này làm tài sản đảm bảo để vay vốn ở ngân hàng khác. Ngoài ra thì trường của các DNV&N mang tính chất địa phương là chủ yếu mà cán bộ tín dụng lại thụ động trong việc tìm kiếm thông tin về thị trường đầu ra cũng như đầu vào của DNV&N nên khả năng dẫn đến rủi ro lớn.
+ Khi ngân hàng giải ngân cho DNV&N chủ yếu là dưới hình thức tiền mặt nên việc kiểm soát sau của đồng vốn gặp nhiều khó khăn. Đa số các DNV&N hiện nay vẫn quan hệ mua bán bằng tiền mặt không có chứng từ hoá đơn nên NH khó có thể kiểm soát được đường đi của đồng vốn phát ra.
+ Chiến lược hỗ trợ khách hàng vay vốn còn hạn chế; hầu hết cán bộ tín dụng chỉ làm công việc hướng dẫn khách hàng làm thủ tục vay vốn mà hầu như không có sự tư vấn cho khách hàng. Nhất là khi khách hàng gặp khó khăn thì cán bộ tín dụng chủ yếu là tìm cách thu hồi nợ bằng phát mại tài sản thế chấp mà thiếu sự tư vấn để cùng khách hàng giải quyết khó khăn.
- Về phía DNV&N:
Chất lượng cho vay cao hay thấp không thể chỉ từ một phía Ngân hàng mà quan trọng hơn là từ phía khách hàng vì chất lượng cho vay trước hết thể hiện ở khả năng hoàn trả vốn vay và lãi đúng hạn. Một số nguyên nhân xuất phát từ phía DNV&N như.
+ Khả năng tài chính của hầu hết các DNV&N là thấp; đa số các DNV&N đều có vốn chủ sở hữu nhỏ, tài sản thế chấp thường không có mà chủ yếu là thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Như vậy khả năng trả nợ phụ thuộc hoàn toàn vào phương án sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là đối với các DNV&N mới thành lập việc chấp hành đảm bảo vốn điều lệ như trong đăng ký kinh doanh chưa thực sự được quán triệt. Điều này xuất phát từ qui định của chi nhánh NH là không cho vay vượt quá 3 lần vốn điều lệ. Về mặt cơ chế Nhà Nước thì chưa có một biện pháp hành chính kịp thời để đảm bảo cho các DNV&N thực hiện đúng vốn điều lệ đã đăng ký do đó làm cho vốn chủ sở hữu bị bóp méo.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Bộ Máy Tổ Chức Của Nhtmcp Ct Chi Nhánh Tỉnh Nđ
- Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Nhtmcp Ct Chi Nhánh Tỉnh Nam Định
- Tỷ Lệ Nợ Khó Đòi Của Toàn Chi Nhánh Và Của Cho Vay Ngắn Hạn Đối Với Dnv&n.
- Nâng Cao Chất Lượng Thu Thập Thông Tin
- Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ - 12
- Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ - 13
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ( đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô nhỏ) đang rất khó khăn, thậm chí nhiều doanh nghiệp thua lỗ nặng và trở nên “chới với” vì đang chịu đồng thời của các sức ép: giá nguyên liệu đầu vào chưa giảm nhưng giá sản phẩm đã nhanh chóng “tụt dốc”, nhu cầu mua hàng, tiêu dùng sụt giảm…Các yếu tố như trên đã làm suy giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực tài chính của các khách hàng vay vốn tại chi nhánh.
+ Khả năng quản lý của chủ DNV&N chưa cao; phần lớn các ông chủ DNV&N đều chưa qua trường lớp quản lý kinh tế chủ yếu là do có vốn, có lợi thế về kinh doanh nên đứng ra kinh doanh một số mặt hàng phù hợp với yêu cầu thị trường và khả năng của DNV&N. Điều này dẫn đến các DNV&N hạch toán kế toán không đầy đủ, chính xác, kịp thời. Hơn nữa trong điều kiện thị trường biến động từng ngày, các DNV&N cần chủ động bắt kịp với nhịp độ chung thì mới có thể tồn tại được trong khi những người quản lý DNV&N thường lúng túng trước sự thay đổi của thị trường do vậy dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
+ Đạo đức của khách hàng không tốt; khi khách hàng vay vốn đều phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích. Việc thực tế khách hàng có sử dụng đúng mục đích hay không còn tuỳ thuộc vào đạo đức của họ. Đôi khi họ đưa ra phương án kinh doanh rất khả thi để vay vốn từ ngân hàng. Nhưng khi có vốn rồi họ lại sử dụng vào mục đích khác dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Ngoài ra còn một số trường hợp họ kinh doanh có lãi nhưng họ lại chây ì không muốn trả nợ ngân hàng. Các nhân tố này làm cho khoản vay không có chất lượng hoặc chất lượng không cao nên khi thẩm đinh cán bộ tín dụng cần xem xét kĩ tư cách khách hàng.
+ Chi phí của nguồn ngắn hạn thấp hơn nguồn dài hạn. Do công tác kiểm soát sau của NH còn nhiều hạn chế nên đôi khi các DNV&N nhận được vốn họ thường sử dụng sai mục đích. Nguồn vay ngắn hạn họ lại dùng vào đầu tư dài hạn. Đối với khoản vay ngắn hạn thì nguồn trả nợ là từ doanh thu còn vay dài hạn thì nguồn trả nợ là từ lợi nhuận sau thuế và khấu hao mà khấu hao thì không phải là cùng một lúc nên gây khó khăn cho chi nhánh trong việc thu nợ khi khoản nợ ngắn hạn đến hạn.
+ Ngoài ra, các DNV&N thường hạn chế trong việc tiếp cận thông tin thị trường, quan hệ thương trường kém, thị trường đầu vào và ra không ổn
định. Nên khả năng chống đỡ rủi ro rất kém. Điều này ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ ngân hàng.
- Nguyên nhân khác:
+ Sự hợp tác của các cấp chính quyền địa phương còn chưa như mong đợi, ngân hàng chưa thực sự kết nối chặt chẽ với các cấp chính quyền trong việc huy động vốn và cho vay, cũng như các vấn đề khác…Thủ tục hành chính của một số cấp chính quyền còn lòng vòng gây trở ngại cho ngân hàng và khách hàng (ví dụ: việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với các khách hàng thế chấp bằng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất theo thông tư liên tịch 05 của Bộ Tư pháp và Bộ tài nguyên môi trường phải đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại thành phố Nam Định, song cơ quan này một tuần chỉ có ba ngày tiếp nhận hồ sơ đăng ký là các ngày thứ 3,5,7 trong khi đó ngày thứ bảy lại là ngày nghỉ của ngân hàng), điều này đã gây nên sự phiền hà nhất định cho ngân hàng và khách hàng trong giải quyết các món vay.
+ Sự phối hợp của các ngân hàng trên địa bàn tỉnh Nam Định còn chưa chặt chẽ và chưa đạt được sự đồng thuận cao, có ngân hàng còn hạ bớt các điều kiện cho vay, và lãi suất để thu hút khách hàng đang quan hệ với ngân hàng khác, điều này đã tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh và rủi ro phần lớn lại rơi vào các ngân hàng.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
3.1. Kiến nghị với Nhà nước và các bộ, ngành
- Nhà nước cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của DNV&N trong tiến trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để từ đó có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để DNV&N phát triển. Nhà nước nên có biện pháp để cải thiện nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như người dân nói chung về vai trò của DNV&N. Quan trọng hơn, khi hội nhập WTO các DNV&N phải được chuẩn bị về mặt pháp lý, thương hiệu, cũng như cơ chế khi tham gia thị trường quốc tế để sẵn sàng hội nhập có hiệu quả.
+ Nhà nước cần có chính sách mở rộng giao lưu với tất cả các thị trường để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện cho các DNV&N sản xuất những mặt hàng truyền thống, có khả năng cũng như lợi thế xuất khẩu được xuất khẩu.
- Các chính sách kinh tế của Nhà nước cần ổn định. Nhà nước nên có những biện pháp tháo gỡ khó khăn cho DNV&N đặc biệt là khó khăn về vốn. Cần giúp đỡ các DNV&N nâng cao hiệu quả hoạt động của mình nhằm đảm bảo an toàn về vốn vay cho Ngân hàng.
- Về cơ chế chính sách thì một số luật ban hành thì nghị định và thông tư hướng dẫn chưa kịp thời nên dẫn đến khó khăn trong thực hiên. Nhà nước cần xem xét vấn đề này.
- Nhân tố con người là vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhưng thực tế ở nước ta hiện nay thì đội ngũ quản lý DNV&N vừa thiếu về số lượng và đặc biệt yếu kém về chất lượng. Vì vậy việc đào tạo các nhà quản lý DNV&N là hết sức cần thiết. Nhà nước phải có kế hoạch chỉ đạo các địa phương mở các lớp đào
tạo lại cán bộ quản lý cho các DNV&N. Bên cạnh đó thì công nhân trong các DNV&N chủ yếu là thợ phổ thông không được đào tạo bài bản nên năng suất lao động thấp. Nhà nước cần chỉ đạo các bộ ngành mở thêm các trường đào tạo nghề để nâng cao trình độ của đội ngũ này.
- Hỗ trợ những khó khăn mang tính đặc thù của các DNV&N như sự hạn chế về kế hoạch, chiến lược trong sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính thông qua các hoạt động đào tạo tăng cường khả năng kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp, tiếp tục thúc đẩy đề án thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng.
- Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần thúc đẩy việc cải cách hành chính, hoàn thiện các quy định liên quan đến giao dịch bảo đảm, về chứng thư sở hữu tài sản.
3.2. Kiến nghị với NHNN
- Trong khuôn khổ các qui định về kinh tế, tài chính, tín dụng, vấn đề bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế còn nhiều hạn chế. Điều này được thể hiện trong chính sách tín dụng, các điều kiện cho vay vốn còn quá cứng nhắc. Đồng thời còn có sự phân biệt trong tài sản thế chấp cũng như mức lãi suất cho vay. Vì vậy để khuyến khích các DNV&N thì NHNN cần xem xét để đưa ra các qui định cho vay linh hoạt và mức lãi suất cho vay bình đẳng.
- Hệ thống thông tin tín dụng của NH Việt Nam bao gồm trung tâm thông tin tín dụng (CIC) và phòng thông tin của các NHTM được hình thành từ mấy năm nay mặc dù đã có những kết quả nhất định nhưng về cơ bản là chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin của các ngân hàng. NHNN cần cải thiện để có thể đáp ứng được nhu cầu thông tin của các ngân hàng về dư nợ của khách hàng tại các ngân hàng khác cũng như mối quan hệ của khách hàng với Ngân hàng khác...Từ đó giúp các NHTM tránh được các khách hàng vay vốn bừa bãi tại nhiều NH. NHNN cần sớm có biện pháp để hoạt động của trung tâm này có hiệu quả. NHNN cũng nên cho phép hình thành và phát triển các
cơ quan chuyên cung cấp thông tin tín dụng nhằm tăng cường nguồn thông tin cho các ngân hàng.
- Nhà nước cần tăng cường hoạt động liên NH. Việc liên kết giữa các NH có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết để cùng phát triển.
- Phối hợp với chính quyền địa phương vận dụng thực hiện các yêu cầu của bộ ngành chức năng có liên quan tới NH một cách đồng bộ và đầy đủ. Thời gian qua việc này đôi lúc còn chưa quán triệt ở một số nơi.
3.3. Kiến nghị với các Ngân hàng thương mại
3.3.1. Một số giải pháp chung cho các Ngân hàng thương mại nhằm nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với DNV&N
3.3.1.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay
Vốn vay phải được hoàn trả theo đúng kỳ hạn nợ đã ấn định cả vốn gốc và lãi. Đây là nguyên tắc nền tảng đảm bảo cho sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Muốn bảo đảm an toàn vốn vay, các ngân hàng cần phải thực hiện tốt việc thẩm định các dự án xin vay vốn, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, xác định kỳ hạn nợ dựa trên cơ sở chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, theo dõi thường xuyên để có biện pháp xử lý nợ đồng thời kịp thời phát hiện những rủi ro trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay.
Thẩm định cho vay là khâu thẩm tra khách hàng và dự án xin vay dựa trên nhiều tiêu chí đồng thời đây là công đoạn rất phức tạp bao gồm những công việc như; khâu nhận hồ sơ, phân tích năng lực điều hành, khả năng tài chính, kết quả kinh doanh của khách hàng, phân tích tính khả thi của từng phương án vay. Để đạt được kết quả cao trong công tác này đòi hỏi ngân hàng phải nâng cao chất lượng trên hai mặt là chất lượng thu thập thông tin và chất lượng xử lý thông tin.