Nâng cao chất lượng cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – bidv từ sơn - 2

1.1.2 Vai trò và đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ

1.1.2.1 Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ

Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền đại công nghiệp phát triển gắn với những công ty, tập đoàn kinh tế lớn như ngày nay thì sự khởi đầu của họ cũng là những xí nghiệp, công trường thủ công sản xuất nhỏ. Trong quá trình phát triển, sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình cạnh tranh gay gắt giữa những xí nghiệp trong nước và ngoài nước đã tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn như ngày nay. Tuy vậy, ngay cả ở các nước tư bản phát triển, các DNVVN vẫn giữ một vị trí quan trọng và ngày càng được khẳng định, bởi vì nhiều lĩnh vực kinh tế chỉ có thể SXKD có hiệu quả bởi các DNVVN. Trải qua nhiều thời kỳ kinh tế, đặc biệt là sau những thời kỳ suy thoái kinh tế, người ta luận ra rằng khu vực DNVVN là nhân tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, bảo đảm và ổn định kinh tế, phòng chống nguy cơ khủng hoảng. Thật vậy, khu vực DNVVN là xương sống trong nền kinh tế của nhiều quốc gia hiện tại và cả tương lai. Đặc biệt khi cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho các DNVVN nhiều cơ hội tập trung kỹ thuật, có khả năng sản xuất các sản phẩm không thua kém các doanh nghiệp lớn. Mặt khác, xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay về tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ. Trong điều kiện này, lợi thế của các doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ bị giảm sút. Sự phát triển của chuyên môn hoá và hợp tác hoá đã không cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình SXKD một cách có hiệu quả. Mà với mô hình sản xuất kiểu vệ tinh, trong đó các DNVVN là vệ tinh của các doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp.

Như vậy, một nền kinh tế hiện đại thì DNVVN ngày càng không thể tan biến trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác để mở rộng lại ngày càng tăng.

Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển, tiến tới nền kinh tế thị trường thì DNVVN càng có ý nghĩa quan trọng. Điều đó được thể hiện cụ thể trên các mặt sau:

- DNVVN chiếm tỷ trọng cao về số lượng, thu hút nhiều lao động và đóng góp phần lớn thu nhập quốc dân cho đất nước. Theo Tạp chí con số và sự kiện, số 475 của Tổng cục thống kê Việt Nam, phát hành tháng 5/2013 thì Việt Nam có hơn 95% các doanh nghiệp là DNVVN, tạo công ăn việc làm cho hơn 90% lao động xã hội. Như vậy, phát triển DNVVN là chủ trương đúng đắn của Đảng, nó được gắn liền với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng theo định hướng kinh tế thị trường nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập, góp phần vào ổn định tình hình kinh tế xã hội.

- Các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá và cung cấp dịch vụ, có vai trò bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là xí nghiệp gia công



vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn cùng hệ thống và là mảng lưới tiêu thụ hàng hoá cho các doanh nghiệp lớn. Cũng theo Tạp chí con số và sự kiện, số 475 của Tổng cục thống kê Việt Nam, phát hành tháng 5/2013 thì các DNVVN chiếm khoảng 29% tổng sản lượng công nghiệp hàng năm, 83% doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 71% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá.

- Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được, chế biến hàng hoá xuất khẩu và tăng kim ngạch xuất khẩu. Hệ thống siêu thị cũng không thể thay thế được các của hàng bán lẻ, những nhà máy quy mô lớn không sản xuất được những sản phẩm đơn chiếc, mang tính thủ công. Bằng sự đa dạng ngành nghề, các DNVVN sẽ có nhiều thuận lợi trong sản xuất và cung cấp dịch vụ, đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng xã hội. Với lợi thế so sánh về các nguyên liệu nông, lâm, thuỷ, hải sản để sản hàng hoá xuất khẩu, lợi thế về ngành nghề thủ công truyền thống đã tạo ra khả năng vô cùng to lớn cho khu vực DNVVN tham gia sản xuất, gia công chế biến, đại lý khai thác cho xuất khẩu.

- Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng sản xuất. Phát triển DNVVN sẽ giúp các địa phương khai thác thế mạnh về đất đai, tài nguyên, lao động trong mọi lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế địa phương. Từng địa phương cũng bị giới hạn bởi ngân sách, khả năng tích tụ và tập trung vốn của doanh nghiệp tư nhân không nhiều nên việc phát triển doanh nghiệp lớn là hạn chế. Chính vì vậy, Đảng và Chính phủ ta đưa ra các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại ở vùng núi phía Bắc, vùng cao nguyên Nam Trung Bộ và phát huy các làng nghề truyền thống.

Như vậy, có thể khẳng định vị trí và vai trò của các DNVVN, đồng thời việc chú trọng phát triển các DNVVN là một trong những hướng chiến lược quan trọng quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.

Bảng 1.2 Đánh giá vai trò của DNVVN ở Việt Nam


TT

Vai trò

Tỷ lệ (%)

1

Góp phần tăng trưởng kinh tế

51,7

2

Tạo việc làm, tăng thu nhập

88,5

3

Tăng tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế

83,2

4

Tham gia đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam

63,2

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 57 trang tài liệu này.

Nâng cao chất lượng cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – bidv từ sơn - 2

(Nguồn: Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam năm 2011)


4

1.1.2.2 Một số đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Xét về ưu điểm: DNVVN tồn tại và phát triển ở mọi thành phần kinh tế. Ở nước ta, DNVVN chiếm 33,6% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 65,9% trong các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã; 94,6% công ty trách nhiệm hữu hạn; 99,4% doanh nghiệp tư nhân; 65,9% doanh nghiệp Nhà nước và gần 100% doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nông thôn là các DNVVN. Bên cạnh đó, các DNVVN còn có tính năng động và linh hoạt cao trước những thay đổi của thị trường, có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh vì vốn đầu tư ít và thu hồi vốn nhanh, chính vì vậy, các DNVVN dễ phát huy được bản chất hợp tác, có thể duy trì tự do cạnh tranh và phát huy tiềm lực ở trong nước. Hơn nữa, các doanh nghiệp này có bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ, hiệu quả nên các quyết định quản lý đưa ra được thực hiện một cách nhanh chóng, không ách tắc và tránh phiền hà nên có thể tiết kiệm tối đa chi phí quản lý doanh nghiệp. Xét về số vốn đầu tư thì các DNVVN có vốn ban đầu ít, khả năng thu hồi vốn nhanh qua các hoạt động SXKD, có hiệu quả sử dụng vốn cao và ít xảy ra rủi ro trong quá trình hoạt động nên tạo ra nhiều khả năng đầu tư của các cá nhân và mọi thành phần kinh tế.

Bên cạnh những ưu điểm nói trên, thì các DNVVN vẫn còn bộc lộ những điểm hạn chế như nguồn tài chính hạn hẹp nên quá trình tích tụ và tập trung để đầu tư tái sản xuất diễn ra rất chậm chạp, trình độ quản lý SXKD còn nhiều hạn chế, khó khăn thâm nhập vào thị trường thế giới và khu vực.

1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

1.2.1 Khái niệm cho vay

Theo khoản 16 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng 2010 thì: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.

Theo đó, việc NHTM cho các DNVVN vay vốn sẽ dựa theo đúng các quy định của Luật tổ chức tín dụng 2010 đã ban hành. Ngân hàng sẽ cho các doanh nghiệp vay tiền phục vụ cho việc SXKD thông qua các thỏa thuận, cam kết giữa hai bên và phía các doanh nghiệp sẽ có nghĩa vụ đóng lãi và hoàn trả toàn bộ số tiền đã vay của ngân hàng theo đúng thời hạn đã cam kết.

1.2.2 Các hình thức cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Có rất nhiều tiêu thức để phân loại các hình thức và sản phẩm cho vay đối với DNVVN. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học nhằm mục đích giúp cho các ngân hàng có thể thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả của công



tác quản trị rủi ro của việc cho vay. Tuy nhiên, đối với việc cho các DNVVN vay vốn, việc phân loại cho vay sẽ được dựa và các căn cứ sau đây:

1.2.2.1 Mục đích cho vay

Dựa vào mục đích cho vay, việc cho vay đối với các DNVVN thường phân thành các loại sau:

- Cho vay bất động sản: Loại cho vay này liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Hình thức vay này nhằm khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô cũng như địa bàn kinh doanh.

- Cho vay công nghiệp và thương mại: Đây là loại cho vay ngắn hạn của ngân hàng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ nhằm để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp này.

- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay phục vụ cho mục đích trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu,…

Việc NHTM cho các DNVVN vay vốn chủ yếu dựa vào mục đích cho vay công nghiệp và thương mại. Trong loại mục đích vay này, các DNVVN sẽ có nhiều lợi thế như: những chính sách hỗ trợ của địa phương trong việc phát triển các DNVVN trên địa bàn tỉnh về việc cắt giảm lãi suất hay tăng tổng số vốn được vay để việc đầu tư cho việc SXKD mang lại hiệu quả cao nhất.

1.2.2.2 Thời hạn cho vay

Theo tiêu thức này, việc cho vay đối với DNVVN được chia thành 03 loại:

- Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các nhân.

- Cho vay trung hạn: Là các món vay có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng. Cho vay trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng SXKD, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.

- Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn vay trên 05 năm và thời hạn tối đa có thể lên tới 20 – 30 năm. Cho vay dài hạn được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư mới, mở rộng sản xuất, đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà ở, mua sắm, đầu tư phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp, dây chuyền, nhà máy sản xuất.


6

Thời hạn vay vốn của các DNVVN chủ yếu là ở mức ngắn hạn. Các doanh nghiệp này vay vốn để trực tiếp thực hiện việc SXKD và mở rộng các hoạt động kinh doanh nên nguồn vốn vay sẽ có vòng quay ngắn, nguồn vốn đầu tư sẽ nhanh chóng được thu hồi do việc SXKD của các DNVVN mang tính thời vụ và có chu kỳ. Chính vì thế thời gian vay vốn của các doanh nghiệp này chủ yếu nằm trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 12 tháng.

1.2.2.3 Mức độ tín nhiệm đối với khách hàng

Theo tiêu thức phân loại này, việc cho vay đối với DNVVN được chia thành 02

loại:


- Cho vay không bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, có uy tín cao, có khả năng tài chính vững mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần một nguồn thu thứ hai bổ sung.

- Cho vay có tài sản bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu tính chắc chắn.

Hiện nay, dựa theo mức độ tín nhiệm với khách hàng thì các NHTM chủ yếu

cho DNVVN vay theo hình thức cho vay có tài bảo đảm. Nguyên nhân của việc này là để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng khi mà việc SXKD của các DNVVN chỉ mang tính thời vụ, không có dự án cụ thể nên sẽ không chứng minh được lợi nhuận cũng như doanh thu của dự án.

Tuy nhiên, đối với các khách hàng là các doanh nghiệp thân thiết, có quan hệ trong một thời gian dài với ngân hàng thì sẽ được ngân hàng ưu đãi về mặt tổng số tiền được vay hoặc sẽ được ngân hàng gia tăng thời gian đáo hạn.

1.2.2.4 Phương pháp cho vay

Dựa vào tiêu thức này, việc cho vay của NHTM đối với các DNVVN được chia thành các loại sau đây:

- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay nhiều lần cách biệt nhau đối với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên và chỉ vay trong trường hợp cần thiết vốn để ngân hàng tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ SXKD. Khi cần vay vốn, khách hàng làm đơn yêu cầu và trình phương án sử dụng vốn vay gửi đến Ngân hàng. Ngân hàng sẽ phân tích,



đánh giá khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu câu bảo đảm nếu cần.

- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng này được xác định dựa trên kế hoạch SXKD, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Mỗi lần khách hàng vay chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ vay, ngân hàng sẽ phát tiền vay cho khách hàng.

- Cho vay luân chuyển: Là hoạt động cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá, áp dụng đối với doanh nghiệp thương mại hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng hoá và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng cùng với khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức cho vay, hạn mức tín dụng và các nguồn cung cấp hàng hoá cũng như khả năng tiêu thụ. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay, ngân hàng sẽ cho vay và trả tiền cho người bán. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản vay tại Ngân hàng.

Hiện tại, các DNVVN chủ yếu được ngân hàng cho vay theo hình thức cho vay trực tiếp từng lần. Điều này không khó lí giải bởi các DNVVN chỉ vay vốn khi các đối tượng đó thực sự cần và quá trình thu hồi vốn của các đối tượng đó diễn ra nhanh nên một doanh nghiệp cụ thể sẽ không vay ngân hàng một cách liên tục mà khi doanh nghiệp đó thực sự thiếu vốn mới tìm đến ngân hàng.

1.2.3 Các nhân tố cơ bản trong hoạt động cho vay của ngân hàng

1.2.3.1 Nguồn vốn cho vay

Vốn cho vay được ngân hàng huy động từ các nguồn khác nhau như:

- Vốn tự có của ngân hàng: nói chung nguồn vốn nay chiếm một tỷ trọng không cao trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng.

- Nguồn vốn huy động tiền gửi ngắn hạn trong nước: Nguồn huy động này biến động trong từng thời kỳ, phụ thuộc vào biến động của thị trường vốn, vào sự thay đổi của các định chế của nhà nước và được sử dụng để cho vay trung và dài hạn chủ yếu trong trường hợp số dư tiền gửi ngắn hạn quá lớn, có khả năng gây ra ứ đọng vốn.


8

- Huy động tiền gửi trung và dài hạn trong nước (trái phiếu, kì phiếu): đây là nguồn tài trợ quan trọng cho hoạt động cho vay trung và dài hạn.

- Vốn vay thị trường trong và ngoài nước: Nguồn huy động này bao gồm cả khoản vay ngắn hạn ở thị trường liên ngân hàng hoặc vay từ ngân hàng nhà nước và các khoản vay dài hạn trong và ngoài nước.

- Vốn uỷ thác tài trợ phát triển.

- Các quỹ đầu tư phát triển theo nguồn vốn ODA và các nguồn khác.

1.2.3.2 Thời hạn cho vay

Đây là một yếu tố quan trọng trong hoạt động cho vay. Nó là cơ sở để xác định lợi tức mà DNVVN phải trả cho ngân hàng. Có hai loại thời hạn là:

- Thời hạn cho vay chung: Được tính từ khi bắt đầu cấp vốn đến khi hoàn trả xong khoản tiền đó. Thời hạn cho vay chung là thời hạn nguồn vốn được sử dụng chính thức trong hợp đồng cho vay.

- Thời hạn cho vay trung bình: là khoảng thời gian mà toàn bộ số tiền vay được sử dụng. Thông thường thời hạn cho vay trung bình nhỏ hơn thời hạn cho vay chung trừ khi vốn vay được cấp và hoàn trả một lần.

1.2.3.3 Lãi suất cho vay

- Lãi suất cho vay là tỷ lệ tính trên tổng số vốn vay mà DNVVN phải trả cho ngân hàng để được sử dụng vốn vay. Nói một cách khác, lãi suất cho vay chính là giá cả của khoản vay đó và cũng như giá cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất chủ yếu được tạo ra bởi cung cầu về vốn. Bên cạnh đó, lãi suất còn chủ yếu phụ thuộc vào mức độ rủi ro, số lượng vốn vay, thời hạn vốn vay và tình hình kinh tế.

- Lãi suất hiện nay ở nước ta đang áp dụng phổ biến là lãi suất thoả thuận.

1.2.3.4 Hạn mức cho vay

- Hạn mức cho vay là lượng vốn tối đa mà ngân hàng nhà nước cho phép các NHTM có thể cho DNVVN vay lại và hạn mức cho vay còn phụ thuộc vào chính sách riêng của ngân hàng đó.

- Theo quy chế cho vay hiện nay ở nước ta thì tổng dư nợ cho vay không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng trừ nguồn vốn uỷ thác hoặc trường hợp đặc biệt được Chính phủ cho phép.

1.2.4 Đặc điểm hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Cho vay là hoạt động truyền thống của ngân hàng, hoạt động cho vay phát triển đa dạng và hoàn thiện với nhiều loại hình khác nhau từ cho vay ngắn hạn đến cho vay với thời hạn dài, mà thời hạn cho vay càng dài thì tính rủi ro càng lớn, do đó lãi suất cho vay dài hạn càng lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Các NHTM thường cho



DNVVN vay vốn theo hình thức ngắn hạn vì hoạt động của các doanh nghiệp này không ổn định, mang tính thời vụ và không có các dự án đầu tư mang tính lâu dài. Nguồn vốn vay ngắn hạn được các DNVVN phục vụ cho chi tiêu trong quá trình hoạt động, hay thu mua nguyên vật liệu, trả tiền lương, bổ sung cho vốn lưu động, tức là nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn. Vì vậy cho vay ngắn hạn có tính lỏng cao hơn, có thể coi như một bộ phận đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng. Trái lại, ngân hàng không tập trung cho vay trung và dài hạn đối với DNVVN, vì cho vay trung và dài hạn thường đầu tư vào mở rộng, đầu tư mới sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị khoa học công nghệ, dây truyền sản xuất hiện đại,… tức là những dự án chưa có khả năng sinh lời trong thời gian ngắn. Do đó có tính lỏng thấp, độ rủi ro cao nên có lãi suất cao nhất trong các loại hình cho vay nên các khoản cho vay, đặc biệt là các khoản cho vay trung và dài hạn có chất lượng tốt sẽ mang lại khoản lợi nhuận lớn cho ngân hàng.

Từ quan hệ uy tín với các DNVVN trong hoạt động cho vay, ngân hàng sẽ tạo lập được mối quan hệ với các doanh nghiệp này trong các lĩnh vực khác như: mở tài khoản tiền gửi thanh toán, dịch vụ thanh toán hộ, bảo lãnh,… Về phía các DNVVN sẽ có tình hình hoạt động SXKD có hiệu quả hơn, trên cơ sở mối quan hệ sẵn có với ngân hàng, các DNVVN sẽ chủ động tạo lập mối quan hệ tín dụng khác với ngân hàng, tạo mối quan hệ ngày càng bền vững giữa doanh nghiệp và ngân hàng, như vậy góp phần làm cho thị trường tín dụng được mở rộng.

Mặt khác, thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng cũng thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ bằng việc cho vay bằng vốn ngân sách dự phòng. Nhà nước uỷ quyền cho ngân hàng phát hành trái phiếu, kì phiếu để huy động vốn cho đầu tư phát triển. Khi đó, ngân hàng sẽ được biết đến rộng rãi hơn trong dân chúng không chỉ ở hoạt động cho vậy mà cả hoạt động huy động vốn cũng sẽ phát triển, tạo uy tín và danh tiếng cho ngân hàng.

Hoạt động cho vay là hoạt động đem lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận rất lớn, khoản mục cho vay chiếm một tỷ trọng lớn trong tài sản của ngân hàng. Với quy mô như vậy, cho vay ảnh hưởng lớn đến nhiều chiến lược hoạt động của ngân hàng như dự trữ, vay, đầu tư,... Vì vậy, trong mọi hoạt động đều phải tuân thủ nguyên tắc cho vay, đặc biệt là đối với các DNVVN. Nguyên tắc cho vay góp phần rất quan trọng vào việc hạn chế rủi ro của NHTM. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản:

- Sàng lọc: Lựa chọn đối nghịch trong các thị trường cho vay đòi hỏi ngân hàng phải lọc những doanh nghiệp đi vay có triển vọng tốt ra khỏi những doanh nghiệp có triển vọng xấu, nhờ vậy các khoản cho vay sẽ an toàn hơn và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.


10

- Giám sát: Ngân hàng phải tiến hành hoạt động giám sát nhằm hạn chế rủi ro đạo đức, cần xác định rõ những quy định và hạn chế trong các hợp đồng vay, đồng thời giám sát xem doanh nghiệp đi vay có tuân thủ theo các quy định, hạn chế đó không và có thể cưỡng chế thi hành nếu doanh nghiệp đi vay không tuân thủ.

- Quan hệ với các DNVVN thường xuyên và lâu dài: Một doanh nghiệp đi vay có quan hệ với ngân hàng trong khoảng thời gian dài trước đó thì ngân hàng sẽ nhìn vào hoạt động quá khứ của doanh nghiệp để nắm bắt được một số lượng thông tin đáng kể về doanh nghiệp này. Điều này sẽ giảm rủi ro đạo đức trong cho vay, tiết kiệm được chi phí và thời gian thẩm định doanh nghiệp.

- Tài sản đảm bảo: Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có tài sản đảm bảo, đây là nguồn trả nợ thứ hai cho ngân hàng khi nguồn thứ nhất là nguồn thu nhập từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đi vay không đảm bảo trả được nợ.

- Hạn chế cho vay: Đó là việc ngân hàng từ chối cho vay mặc dù doanh nghiệp vay sẵn lòng thanh toán lãi suất đã được công bố thậm chí với một lãi suất cao hơn. Việc hạn chế cho vay có 2 dạng: (1) Ngân hàng từ chối cho vay với bất kỳ số lượng nào với doanh nghiệp vay; (2) Ngân hàng cho vay nhưng hạn chế mức vay dưới mức vay mà doanh nghiệp mong muốn.

- Tương hợp ý muốn: Đó là vấn đề thồng nhất giữa ngân hàng và doanh nghiệp về: nhu cầu vay vốn, quy mô của loại hình cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, thời điểm giải ngân,…

1.2.5 Vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Với chức năng là một trung gian tài chính, ngân hàng đã biến tiết kiệm thành đầu tư, tức là huy động vốn từ các nguồn vốn tạm thời dư thừa trong SXKD cũng như nguồn vốn nhàn rỗi nằm rải rác trong dân cư để cho vay. Đối với các DNVVN, do quy mô sản xuất còn nhỏ hẹp, nguồn vốn đầu tư còn hạn chế nên nguồn vốn vay được từ ngân hàng sẽ giúp cho các doanh nghiệp này có điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao hiệu quả SXKD, từ đó, quá trình sản xuất được diễn ra liên tục, góp phần nâng cao lợi nhuận của các doanh nghiệp này.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, nhiều tổ chức tín dụng ra đời, đặc biệt trong thời gian qua nhiều NHTM mới được thành lập. Khi nước ta được làm thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO, ngành ngân hàng đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức, đòi hỏi các ngân hàng nâng cao trình độ quản lý và công nghệ ngân hàng. Đồng thời chất lượng cho vay luôn được



quan tâm hàng đầu, nó là sức mạnh nội lực giúp ngân hàng tồn tại và phát triển trong cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.

1.2.5.1 Đối với ngân hàng

Hoạt động chủ yếu của NHTM là việc thu hút vốn để mở rộng cho vay và đầu tư nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh quan trọng nhất của ngân hàng là chiến lược tín dụng. Trong đó hoạt động cho vay là hoạt động có rủi ro cao nhưng hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao nên các ngân hàng luôn quan tâm đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay.

- Mở rộng cho vay làm tăng doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng: Khi ngân hàng cho vay ngân hàng thu được tiền lãi:

Tiền lãi = Lãi suất x Tổng dư nợ thực tế x Thời gian vay

Tiền lãi chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng. Khi ngân hàng mở rộng cho vay về chiều rộng làm tổng dư nợ tăng lên; nếu ngân hàng không gặp rủi ro lớn từ các khoản cho vay này thì chắc chắn doanh thu và lợi nhuận sẽ tăng lên. Khi ngân hàng mở rộng cho vay về chiều sâu chất lượng của các khoản cho vay tăng lên, khả năng thu hồi vốn vay và lãi là cao, đặc biệt đối với các khoản vay với thời hạn dài thì doanh thu và lợi nhuận từ các khoản vay này cũng tăng lên. Ngoài thu từ lãi, ngân hàng còn có các khoản thu phí dịch vụ như: dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ tư vấn….

- Nâng cao chất lượng cho vay: Giúp ngân hàng phát triển bền vững.

1.2.5.2 Đối với khách hàng

Chất lượng cho vay tạo lòng tin đối với khách hàng. Trong điều kiện nền kinh tế mở, khách hàng có quyền lựa chọn ngân hàng làm đối tác. Chính vì vậy ngân hàng nào có chất lượng cho vay tốt sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến thiết lập quan hệ với ngân hàng. Với vai trò chủ đạo cung cấp vốn cho nền kinh tế, các ngân hàng hỗ trợ và tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức kinh tế tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.

Đối với DNVVN, do có quy mô về nguồn vốn còn hạn hẹp, khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn là rất khó, chính vì vậy, từ nguồn vốn vay được của ngân hàng, các DNVVN có áp lực trả nợ vay sẽ tận dụng tối đa lợi ích của nguồn vốn vay mang lại, tăng cường hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường để nhanh chóng tạo ra lợi nhuận và trả nợ vốn vay cho ngân hàng.

1.2.5.3 Đối với nền kinh tế

Thứ nhất: Chất lượng cho vay có vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh.


12

Thứ hai: Góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là kết quả tác động nhiều mặt của đổi mới hoạt động ngân hàng, nhất là những cố gắng của ngành ngân hàng trong việc huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển, trong việc đổi mới chính sách cho vay và cơ cấu tín dụng theo hướng căn cứ vào tính khả thi và hiệu quả của từng dự án, từng lĩnh vực ngành nghề để quyết định cho vay.

Thứ ba: Chất lượng cho vay đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm khoảng 35-37% GDP.

Thứ tư: Thông qua nguồn vốn cho các chương trình và dự án phát triển sản xuất kinh doanh, hàng năm, hệ thống ngân hàng đã góp phần tạo thêm được nhiều việc làm mới, nhất là tại các vùng nông thôn. Việc sử dụng vốn ngân hàng cho mục đích này ngày càng có tính chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả. Góp phần hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao động, góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững.

Thứ năm: Hoạt động cho vay góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và phát triển các ngành chủ chốt thông qua huy động và cho vay có định hướng.

1.3 Chất lượng cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

1.3.1 Quan niệm chất lượng cho vay

Chất lượng cho vay tại ngân hàng thương mại là chất lượng của các khoản cho vay của ngân hàng thương mại. Các khoản cho vay có chất lượng khi vốn vay được khách hàng sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, tạo ra số tiền lớn hơn, thông qua đó ngân hàng thu hồi được gốc và lãi, còn doanh nghiệp có thể trả được nợ, bù đắp chi phí và thu được lợi nhuận. Điều này có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế lại tạo được hiệu quả xã hội .

Quan niệm về chất lượng cho vay vừa mang tính chất định tính, khó xác định cụ thể bằng các số liệu tính toán được, vừa mang tính định lượng thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế,…

Trong quan hệ với các DNVVN, để có được chất lượng cho vay thì hoạt động cho vay phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng này phải được thiết lập trên cơ sở uy tín và sự tin cậy trong hoạt động. Có nghĩa là, trước khi cho vay ngân hàng cần phải xem xét, tìm hiểu thật kỹ các DNVVN cho nhu cầu vay vốn, nguồn vốn cho vay phải được các doanh nghiệp này sử dụng một cách hiệu quả, tạo ra lợi nhuận lớn để phục vụ cho quá trình sản xuất, tái đầu tư sau này thì đó mới là khoản vay có chất lượng.

Do đó, xem xét đánh giá một khoản vay là tốt hay xấu cần có một cái nhìn bao quát, toàn diện vấn đề.



1.3.2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay

1.3.2.1 Nâng cao chất lượng cho vay là cần thiết để phát triển kinh tế

Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, hoạt động cho vay ngày càng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn không ngừng tăng cao của nền kinh tế. Chất lượng cho vay ngày càng được quan tâm bởi lẽ:

- Đảm bảo chất lượng cho vay là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò là trung tâm thanh toán: khi chất lượng cho vay được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn cho vay, với một lượng tiền như cũ có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền.

- Chất lượng cho vay góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng tạo tiền của NHTM, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, NHTM có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền thực có, hoặc ngân hàng cho phép các chủ tài khoản phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khác cho khách vượt quá số tiền gửi thực có, hay khi ngân hàng xử lý hoạt động thanh toán cho khách hàng đã cung cấp cho doanh nghiệp một khối lượng thanh toán bằng cách ghi "có" trước ghi "nợ" sau.

1.3.2.2 Nâng cao chất lượng cho vay quyết định sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại

Những tác động của chất lượng cho vay đối với NHTM:

- Chất lượng cho vay làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí của hoạt động cho vay, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay.

- Chất lượng cho vay đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh.

Với những tác động tích cực trên việc nâng cao chất lượng cho vay là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của NHTM.

1.3.3 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

1.3.3.1 Chỉ tiêu định tính

Thứ nhất: Ngân hàng là đơn vị đứng ra thẩm định, xem xét việc cho các DNVVN vay vốn nên để mang lại một khoản cho vay có chất lượng thì ngân hàng phải xem xét thật kỹ để chọn ra những doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn, tránh mang lại rủi ro tín dụng như nợ xấu, nợ quá hạn, nợ khó đòi,… Đối với ngân hàng thì chất lượng cho vay biểu hiện ở một số chỉ tiêu sau:


14

Xem tất cả 57 trang.

Ngày đăng: 17/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí