việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án không được căn cứ vào đơn đó để thụ lý vụ án dân sự và hướng dẫn cho đương sự khởi kiện vụ án dân sự và tiến hành giải quyết vụ án theo tố tụng dân sự. Đối với các trường hợp này Tòa dân sự cần căn cứ vào điểm d, khoản 1, Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự trả lại đơn của đương sự và hướng dẫn họ gửi đơn đến ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giải quyết.
- Nếu đương sự khiếu nại quyết định giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của ủy ban nhân dân hoặc khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đã được ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ra quyết định giải quyết việc khiếu nại, nhưng sau đó đương sự lại khởi kiện vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất ra Tòa dân sự, mà Tòa dân sự thụ lý vụ án dân sự cũng là sai. Trong trường hợp này đương sự chỉ có quyền khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên hoặc khởi kiện vụ án hành chính (khi còn thời hiệu). Nếu đương sự không khiếu nại lên cơ quan hành chính hoặc khởi kiện ra Tòa hành chính thì quyết định hành chính đó có hiệu lực thi hành và đương sự không có quyền khởi kiện vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất ra Tòa dân sự. Trong trường hợp đương sự có đơn khởi kiện ra Tòa dân sự thì tùy trường hợp xử lý như sau:
+ Nếu Tòa án chưa thụ lý thì căn cứ điểm c, khoản 1 hoặc điểm e, khoản 1, Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự trả lại đơn khởi kiện cho đương sự.
+ Nếu Tòa án đã thụ lý thì căn cứ vào khoản 2, Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho đương sự.
- Trong thời gian qua, khi giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất có một số vụ án, Tòa án chỉ căn cứ vào hình thức giấy tờ như thấy bên nào có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là kết luận đất của bên đó, không căn cứ vào các quy định của pháp luật về đất đai và các văn bản pháp luật khác có liên quan để đánh giá việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đúng hay không để xác định ai có quyền sử dụng đất hợp pháp. Vì vậy, khi xét xử tranh chấp quyền sử dụng đất nếu đất đó đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc một bên đã kê khai đứng tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính..., thì Tòa án phải yêu cầu các đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh việc được đứng tên trong sổ địa chính, sổ đăng ký ruộng đất hoặc được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình... là hợp pháp, chứng minh việc đã làm
đúng trình tự, thủ tục và các quy định của pháp luật về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặt khác, Tòa án phải xác minh, kiểm tra, đánh giá về các loại tài liệu, chứng cứ mà đương sự xuất trình để từ đó căn cứ vào các quy định của pháp luật xác định ai là người có quyền sử dụng đất hợp pháp, có như vậy việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất mới đúng pháp luật.
Vấn đề thứ ba: Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn thống nhất việc áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong đó có thừa kế quyền sử dụng đất vì Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 02) hướng dẫn các trường hợp "không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế" tại tiết a, Điểm 2.4 tiểu mục 2, mục 1 có quy định:
Trường hợp trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà các thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản được chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết... [40].
Như vậy, tiết a, mục 2.4 tiểu mục 2, mục 1 của Nghị quyết số 02 có hai nội dung và có hai cách hiểu khác nhau.
- Cách hiểu thứ nhất: Trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà các bên không tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản do các bên thỏa thuận, thể hiện ý chí đích thực của mình (văn bản này không nhất thiết phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền) cùng xác nhận là đồng thừa kế và di sản do người chết để lại chưa chia, khi đã quá thời hạn 10 năm mới có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.
Có thể bạn quan tâm!
- Nguyên Nhân Hạn Chế Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất
- Quan Điểm Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân
- Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân
- Bồi Dưỡng, Tổ Chức Lại Lực Lượng Hội Thẩm Nhân Dân Để Đáp Ứng Yêu Cầu Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay - 13
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay - 14
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
- Cách hiểu thứ 2: Sau khi kết thúc thời hạn mười năm, các đương sự không có tranh chấp về quyền thừa kế và cùng xác nhận là đồng thừa kế và thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia. Người khởi kiện đưa ra được căn cứ chứng minh đã có sự
thỏa thuận của các đồng thừa kế xác định di sản đó là tài sản chung của các thừa kế thì di sản được chuyển thành tài sản chung. Khi có tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.
Vấn đề thứ tư: Về đường lối xử lý đối với đất trên đó không có tài sản của chủ đất, không phải là đất thổ cư mà chủ đất giao người khác sử dụng trước ngày Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực hoặc người đang sử dụng đất đã tự lấn chiếm trước ngày Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực. Đối với các trường hợp này, Tòa án phải căn cứ Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Điều 1, Điều 16 và Điều 18 Luật đất đai năm 1987, Điều
2 Luật đất đai năm 1993 và khoản 3 Điều 4, khoản 4, Điều 5, khoản 2, Điều 9, Điều 10 Luật đất đai năm 2003 để xử lý theo hướng:
Trong trường hợp chủ đất có kê khai và đứng tên trong sổ địa chính và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ cũ theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định, đồng thời việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó là có căn cứ pháp luật, hợp pháp, còn người đang sử dụng đất không kê khai, không đứng tên trong sổ địa chính, không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án công nhận quyền sử dụng đất cho bên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong trường hợp chủ cũ không kê khai đứng tên trong sổ địa chính không thực hiện quyền quản lý, sử dụng của chủ sử dụng đất; còn người đang sử dụng đất đã kê khai, đăng ký, đứng tên trong sổ địa chính và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật đất đai và các văn bản pháp luật khác có liên quan thì Tòa án cần bác yêu cầu đòi đất của chủ đất cũ và công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho người đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đối với trường hợp cả hai bên (chủ đất cũ và người đang sử dụng đất) đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai (cấp trùng nhau), nay các bên tranh chấp quyền sử dụng đất, thì Tòa án căn cứ thời gian sử dụng đất, đồng thời thu thập các tài liệu, chứng cứ về việc thực hiện thủ tục kê khai, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, căn cứ pháp lý để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cần lưu ý hỏi thêm ý kiến của cơ quan có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để làm rõ trường hợp nào ủy ban nhân dân đã cấp giấy quyền chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng pháp luật, để từ đó công nhận quyền sử dụng đất cho bên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp.
Đối với trường hợp chưa bên nào được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng trong quá trình sử dụng, người sử dụng đất có kê khai, được đứng tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính và họ đang quản lý, sử dụng đất liên tục từ khi có Luật đất đai 1987 đến nay, chủ đất cũ không kê khai thì nên tạm giao quyền sử dụng đất cho bên đang sử dụng đất nhằm bảo đảm ổn định cuộc sống sản xuất cho bên đang sử dụng đất. Nếu cả hai bên đều không kê khai, không đứng tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính và cũng không có bất kỳ giấy tờ gì khác theo quy định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì khi có tranh chấp quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân.
Vấn đề thứ năm: cùng với việc tăng cường hướng dẫn, giải thích kịp thời các văn bản pháp luật, pháp lệnh cần coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử để hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án sát thực tiễn hơn.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã được pháp luật quy định là tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án, cụ thể: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức thực hiện. Tổng kết kinh nghiệm xét xử và tổng kết việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án theo từng chuyên đề nhất định hoặc đường lối xét xử một loại tranh chấp nhất định. Việc tổng kết kinh nghiệm xét xử là việc tiến hành đánh giá quá trình áp dụng pháp luật để ban hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân và hình thành những quan điểm lý luận, những hướng dẫn chung được đúc kết từ thực tiễn áp dụng pháp luật. Mặt khác tổng kết kinh nghiệm xét xử bao gồm cả việc xem xét đánh giá kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, tài liệu vụ án của Thẩm phán và hội thẩm Tòa án. Công tác này giúp ngành Tòa án nhân dân tìm ra nguyên nhân xét xử đúng pháp luật và nguyên nhân sai lầm khi áp dụng quy phạm pháp luật, nguyên nhân lựa chọn nhầm quy phạm pháp luật hoặc áp dụng không đúng quy
phạm pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án dẫn đến hậu quả bản án, quyết định bị cải sửa, huỷ. Do vậy, có tổng kết kinh nghiệm xét xử các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân mới có kinh nghiệm trong việc áp dụng quy phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Qua công tác này các Thẩm phán có những bài học bổ ích để nâng cao kỹ năng áp dụng pháp luật tránh được án oan sai.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, đặc biệt là tổng kết kinh nghiệm xét xử theo chuyên đề có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận, thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử nói chung và chất lượng giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng.
Hiện nay ngành Tòa án nhân dân đã thực hiện việc tăng thẩm quyền cho các Tòa án nhân dân cấp huyện là chủ trương hoàn toàn đúng của Đảng và Nhà nước ta. Có như vậy Tòa án nhân dân tối cao mới có điều kiện cần thiết tập trung vào công tác kiểm tra, giám đốc xét xử, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật trong toàn ngành. Thực tiễn công tác ngành Tòa án nhân dân cho thấy tổng kết kinh nghiệm xét xử của Tòa án nhân dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
3.2.3. Nhóm giải pháp đối với ngành Tòa án nhân dân
3.2.3.1. Nâng cao phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên - lực lượng chủ yếu thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật trong việc xét xử các tranh chấp quyền sử dụng đất
Nghị quyết số 49-NQTƯ ngày 2-6-2005 về "chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã chỉ rõ: "Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí một số cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp" [6].
Chủ tịch Nguyễn Minh Triết, tại buổi tọa đàm và làm việc với Tòa án nhân dân tối cao ngày 6-9-2006 đã nhấn mạnh:
Ngành Tòa án cần tập trung nâng cao chất lượng xét xử, phải bảo đảm khách quan, nghiêm minh. Cán bộ thẩm phán phải tận tụy, vững vàng. Tổ chức tranh tụng tại tòa phải bảo đảm dân chủ, lắng nghe ý kiến để từ đó
có phán quyết nghiêm minh, đúng pháp luật. Ngành Tòa án phải tập trung giải quyết các vụ án nội cộm được dư luận xã hội quan tâm, đặc biệt là các vụ án tham nhũng [30].
Số lượng, chất lượng đội ngũ Thẩm phán luôn là vấn đề mà Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm. Cùng với việc tăng cường về tổ chức, đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán của ngành Tòa án nhân dân luôn được bổ sung và lớn mạnh. Từ chỗ còn ít về số lượng và bất cập về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đến nay ngành Tòa án nhân dân đã được ủy ban Thường vụ quốc hội phê duyệt tổng biên chế là 12.339 cán bộ, trong đó có 5.069 Thẩm phán. Trong đó trình độ đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Tòa án ngày được nâng cao. Hiện nay Tòa án nhân dân có hơn 200 người có trình độ trên đại học,những cán bộ làm công tác chuyên môn nghiệp vụ phần lớn đều có trình độ đại học Luật. Cùng với việc chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ trong toàn ngành, ngành Tòa án nhân dân chú trọng đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống cho cán bộ Tòa án. Toàn ngành Tòa án hiện nay có khoảng
1.000 người có trình độ cử nhân, lý luận chính trị hoặc cao cấp lý luận chính trị [39]. Trong 6 tháng năm 2006 các Tòa án đã tuyển dụng được 216 cán bộ và bổ nhiệm được 151 Thẩm phán (trong đó có 43 Thẩm phán cấp tỉnh, 102 Thẩm phán cấp huyện, 6 Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và khu vực). Đội ngũ cán bộ lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp cũng được tiếp tục củng cố, kiện toàn… Đã bổ nhiệm mới 25 chánh án và 42 phó chánh án Tòa án nhân dân địa phương. Các Tòa án nhân dân đã thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy đảng, Hội đồng nhân dân các địa phương trong việc lựa chọn nhân sự, bổ nhiệm Thẩm phán và lãnh đạo Tòa án nhân dân các địa phương. Tòa án nhân dân tối cao phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp chiêu sinh đào tạo nghiệp vụ xét xử cho 400 học viên để tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp [42].
Trình độ nhận thức chính trị, ý thức giác ngộ chính trị của Thẩm phán có vai trò quan trọng trong hình thành nhân cách của người Thẩm phán. Việc thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp người Thẩm phán có một thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản. Lập trường tư tưởng vững vàng, bản lĩnh chính trị sâu sắc là tiền đề vững chắc đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật của người Thẩm
phán khi xét xử đúng với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong quá trình giải quyết vụ án, bản lĩnh chính trị giúp cho người Thẩm phán cân nhắc, lựa chọn các văn bản pháp luật phù hợp, giúp người Thẩm phán can đảm gạt bỏ mọi cám dỗ về tinh thần, vật chất để "chỉ tuân theo pháp luật". ý thức chính trị ở trình độ cao của người Thẩm phán không chỉ là nhân tố để đảm bảo các quy phạm pháp luật được áp dụng đúng, chính xác mà còn giúp người Thẩm phán có được bản lĩnh để xử lý tình huống một cách linh hoạt, thông minh. Do vậy, một trong những tiêu chuẩn của người Thẩm phán, hội thẩm là "trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Đạo đức cách mạng là cơ sở quan trọng tạo nên nhân cách người Thẩm phán, xác lập chỗ đứng của người Thẩm phán trong xã hội. Đạo đức, phẩm chất của người Thẩm phán bao gồm đức tính trung thực, thẳng thắn, lòng nhân ái, sự dũng cảm, tính công bằng, tinh thần trách nhiệm, sự tự tin, dám nghĩ, dám làm. Theo Bác Hồ dạy thì đạo đức cách mạng bao gồm năm đức tính tốt là: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Người Thẩm phán học tập và làm theo năm đức tính nêu trên như lời Bác Hồ dạy sẽ có đủ tư cách, đạo đức và bản lĩnh chính trị cần thiết để phục vụ xét xử, phụng sự Tổ quốc và nhân dân ngày càng tốt hơn.
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất là việc xem xét tính có hợp pháp hay không hợp pháp của các chứng cứ mà đương sự xuất trình; tính có căn cứ hay không có căn cứ trong bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới. Các bản án, quyết định do áp dụng pháp luật đúng luôn gắn liền với việc bảo vệ quyền con người, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, lợi ích của Nhà nước. Vì vậy, người Thẩm phán phải là người có đạo đức, biết bảo vệ lẽ phải, bình tĩnh, khôn khéo đấu tranh để xác định sự thật khách quan của vụ án, đấu tranh làm rõ mọi sự lừa lọc dối trá, mọi thủ đoạn tinh vi để có những phán quyết hợp tình, hợp lý, dúng pháp luật. Bản án, quyết định phải có lý, có tình để mọi người "tâm phục, khẩu phục".
Người Thẩm phán phải không ngừng rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng "cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư" để có cái tâm trong sáng, bản lĩnh vững vàng khi xét xử, đánh giá các chứng cứ và các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác.
Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ, Thẩm phán ngành Tòa án đã quán triệt sâu sắc ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức, quan điểm lập trường, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít cán bộ, Thẩm phán chưa thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chưa thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ. Từ đó, dẫn đến sa ngã, thoái hóa, biến chất, vi phạm phẩm chất, đạo đức kỷ luật công vụ và thậm chí vi phạm pháp luật.
Để công tác áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án đạt chất lượng, hiệu quả thì đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, Thẩm tra viên ngành Tòa án phải có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, nhất là đạo đức nghề nghiệp. Trong giai đoạn đang tiến hành công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, để thực hiện tốt những nội dung của nghị quyết 08/NQ-TƯ của Bộ Chính trị, nhất là công tác áp dụng pháp luật trong xét xử phải tổ chức cho cán bộ, Thẩm phán học tập, nghiên cứu các chuyên đề về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt nghiêm túc và sâu rộng mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lấy kết quả học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ. Thời gian tới, ngành Tòa án nhân dân cần thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức trong ngành, đặc biệt là việc triển khai, quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và các nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và Thẩm phán. Tăng cường công tác quản lý cán bộ, Thẩm phán của Tòa án các cấp.
3.2.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao hơn nữa nhận thức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán
Chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ được giao phụ thuộc rất lớn vào năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mỗi cán bộ, Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân. Vì vậy, để chất lượng áp dụng pháp luật được tốt thì bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho họ là nhiệm vụ hàng đầu. Bởi vì, người Thẩm phán dù ban đầu có hiểu biết rộng, am hiểu thì vẫn cứ phải thường xuyên cập nhật các thông tin kinh tế, chính trị, xã hội và đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật. Có như vậy họ mới đủ tầm để giải quyết công việc được