Rối Loạn Chuyển Hóa Lipid Máu 1.3.1.định Nghĩa Rối Loạn Chuyển Hóa Lipid Máu


Đánh giá thừa cân và béo phì của WHO (1998) và của IDI &WPRO (2000)


Phân loại

WHO, 1998

BMI (kg/m2)

IDI & WPRO, 2000

BMI (kg/m2)

TTDD bình thường

18,5 - 24,9

18,5 - 22,9

Thừa cân


25,0

23,0


- Tiền béo phì

25,0- 29,9

23,0 - 24,9


- Béo phì độ I

30,0 - 34,9

25,0 - 29,9


- Béo phì độ II

35,0 - 39,9

30,0


- Béo phì độ III

40,0


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Một số yếu tố nguy cơ và hiệu quả của viên tỏi – folate đối với tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu trên người 30 - 69 tuổi tại Hà Nội - 5

Thừa cân và béo phì là một trong những yếu tố thúc đẩy phát sinh các bệnh lý như đái tháo đường, tim mạch, ung thư. Hậu quả này là do sự tăng khối mỡ và tăng kích thước các tế bào mỡ. Khi mô mỡ gia tăng nhanh chóng và không cân đối, nó sẽ làm thay đổi các hoạt động bình thường của mô mỡ, từ đó dẫn đến rối loạn chuyển hóa trong cơ thể. Hiện nay, theo một số tác giả khi phần trăm mỡ cơ thể >25% đối với nam và >30% đối với nữ được coi là ngưỡng nguy cơ đe dọa sức khỏe [16].

Sự phân bố mỡ trong cơ thể cũng được quan tâm: Có 2 dạng phân bố, mà dựa vào đó người ta phân loại béo phì, đó là béo phì trung tâm (béo phì dạng quá táo) và béo phì ngoại biên (béo phì dạng quả lê). Trong béo phì trung tâm, mô mỡ ứ đọng ở quanh bụng và nội tạng, trong khi đó béo phì ngọai biên là tình trạng ứ đọng mỡ ở vùng mông và đùi. Đối với nhóm béo bụng, người ta nhân thấy có một mối liên quan giữa ứ đọng mỡ bụng với rối loạn chuyển hóa mỡ trong cơ thể. Người béo phì trung tâm thường mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư nhiều hơn người béo phì ngoại biên [70].


Tỷ số vòng eo/vòng mông (waist-hip ratio) và vòng eo (waist circumference) được sử dụng để đánh giá sự phân bố mỡ trong cơ thể. Khi tỷ số này vượt quá 0,9 ở nam giới và 0,8 ở nữ giới thì các nguy cơ tăng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh đái tháo đường đều tăng lên rõ rệt. Người ta còn thấy vòng eo, thường không liên quan đến chiều cao mà có liên quan chặt chẽ với chỉ số BMI và tỷ số vòng eo/vòng mông, do đó thường được coi như là tiêu chí đơn giản để đánh giá khối lượng mỡ bụng và toàn cơ thể. Hiện chưa có các “ngưỡng” quy ước đối với vòng eo. Người ta thấy các nguy cơ tăng lên khi vòng eo 94cm đối với nam, 80cm đối với nữ và tăng lên rõ khi các trị số tương ứng là 102cm và 88cm [14].

Nghiên cứu cắt ngang của Schröder H cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa giữa BMI và nồng độ cholesterol toàn phần đối với nam giới và mối liên quan giữa nồng độ HDL_C và BMI ở cả hai giới [138].

Brown mô tả và đánh giá mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao huyết và RLCHLPM trong một cuộc tổng điều tra trên người trưởng thành ở Mỹ. Kết quả cho thấy tỷ lệ RLCHLPM và mức cholesterol trung bình ở những người BMI>25 cao hơn so với những đối tượng có BMI<25. Tỷ lệ có HDL_C thấp tăng và mức HDL_C trung bình giảm khi BMI tăng. Mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao huyết áp và RLCHLPM có ý nghĩa thống kê. OR cao nhất ở độ tuổi 20-39 [45].

Tầm quan trọng của phân bố mỡ ở trung tâm đã được biết đến từ những năm 50: Morris đã mô tả tỷ lệ tử vong do tim mạch tăng ở những người lái xe buýt với kích cỡ dây an toàn lớn [117]. Nghiên cứu theo chiều dọc đầu tiên ở Thụy Điển năm 1984 cho thấy tỷ số vòng eo/vòng mông cao có mối liên quan với đột quỵ [97].

Kết quả nghiên cứu tình trạng RLCHLPM và một số yếu tố liên quan của Nguyễn Lương Hạnh cho thấy tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu CT và TG và BMI có mối quan hệ đồng biến [10].


Nghiên cứu của Phạm Thị Dung cho thấy BMI và phần trăm mỡ cơ thể có mối liên quan chặt chẽ với tỷ lệ mắc HCCH [5].

1.3. RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU 1.3.1.Định nghĩa rối loạn chuyển hóa lipid máu

Rối loạn chuyển hóa lipid máu (RLCHLPM) là một thuật ngữ nhằm chỉ sự biến đổi của các thành phần lipid máu cao hoặc thấp hơn chỉ số hóa sinh bình thường. Dùng cụm từ “rối loạn” mà không dùng là tăng, cao hoặc dư là vì thực sự có nhiều loại lipid trong máu, mà một số loại khi tăng là “xấu” đối với cơ thể, nhưng có loại lipid có vai trò bảo vệ, chống bệnh tật nên càng cao lại càng tốt. Do đó thuật ngữ “rối loạn chuyển hóa lipid máu” có ý nghĩa chính xác hơn [30].

Đánh giá RLCHLPM theo WHO (2000) [157]


- Cholesterol tổng số >5,2 mmol/l (200mg/dl), hoặc

- HDL_C < 0,9 mmmol/l (35mg/dl), hoặc

- LDL_C >3,38 mmol/l (130mg/dl), hoặc

- Triglycerid huyết thanh >2,26mmol/l (90mg/dl)


1.3.2. Phân loại rối loạn chuyển hóa lipid máu Có nhiều cách phân loại

1.3.2.1.Phân loại dựa trên nguyên nhân phát sinh bệnh [30]


o RLCHLPM nguyên phát: đó là những trường hợp rối loạn có nguyên nhân di truyền đã được xác nhận hoặc nguyên nhân bên ngoài nào đó mà cơ chế chưa rõ.

o RLCHLPM thứ phát: đó là trường hợp rối loạn mà cơ chế bệnh sinh của nó là do bệnh nhân mắc các bệnh RLCH, bệnh của một số cơ quan trong cơ thể như thiểu năng tuyến giáp, bệnh lý gan, thận, đái tháo đường, đang uống thuốc tránh thai,


thuốc điều trị ĐTĐ, nội tiết tố nam, corticoidhoặc do thói quen ăn uống, cách sống.

1.3.2.2.Phân loại dựa trên kết quả xét nghiệm Lipid và LP máu


- Phân loại của Fredrickson [11]: Sự phân loại này dựa trên cơ sở phân loại của tăng LP, gồm 5 kiểu, sau này được phát triển và bổ sung thêm bằng cách phân tách kiểu II thành 2 kiểu IIa và IIb và bổ sung thêm kiểu mới là giảm α LP huyết (hypo Lipoproteinaemia). Cách phân loại này cho biết sự thay đổi các thành phần lipid máu dễ gây XVĐM, nhưng không cho biết sự thay đổi thành phần của lipid máu có tác dụng chống XVĐM.

- Phân loại của Chương trình giáo dục Quốc gia về cholesterol của Mỹ (NCEP) [121], xác định đầy đủ các thông số lipoprotein sau ăn 9-12 giờ. Cách phân loại này cho biết sự thay đổi các thành phần lipid máu dễ XVĐM và có tác dụng bảo vệ chống VXĐM đồng thời nó cũng cho biết mức độ rối loạn của các thành phần trên. Đây là cách phân loại mới nhất.

Loại Lipid

mmol/l

mg/dl

Phân loại


LDL_C

<2,6

<100

Tối ưu

2,6-3,3

100-129

Gần tối ưu

3,4-4,1

130-159

Giới hạn cao

4,2-4,9

160-189

Cao

4,9

190

Rất cao


Cholesterol toàn phần

<5,2

<200

Mong muốn

5,2-6,2

200-239

Giới hạn cao

6,2

240

Cao



HDL_C

<1,0

<40

Thấp

>1,6

60

Cao


Triglycerid

<5,2

<200

Bình thường

5,2-10,2

200-399

Giới hạn cao

10,3-26

400-1000

Cao

>26

>1000

Rất cao


- Phân loại của De Gennes theo các thành phần của lipid [6], ông cho rằng cách phân loại này đơn giản, dễ sử dụng, nêu lên được tất cả những trường hợp rối loạn lipid máu vào một khung ổn định:

o Tăng cholesterol đơn thuần: CT huyết thanh tăng (>5,2mmol/l), TG bình thường hoặc tăng nhẹ, tỷ lệ CT/TG>2,5.

o Tăng TG: CT có thể tăng nhẹ, TG rất cao, khi TG>11,5mmol/l trong máu luôn có chylomicron.

o Tăng lipid máu hỗn hợp: CT tăng vừa phải, TG tăng nhiều hơn, tỷ lệ CT/TG<2,5.

1.3.3. Tình hình RLCHLPM trên thế giới và ở Việt Nam


Ngày nay trên thế giới cũng như Việt Nam, số người RLCHLPM ngày càng gia tăng. Theo số liệu của Hội tim mạch Hoa Kỳ, tính đến năm 2000 nước Mỹ có khoảng 37 triệu người và Châu Âu có 47 triệu người có RLCHLPM ở mức cần điều trị [9]. Vào những năm cuối thể kỷ XX, tỷ lệ người RLCHLPM khác nhau ở từng Quốc gia: Pháp 15%, Malaysia 22%, Thụy Điển 26%, Nhật Bản 17,6%, Mỹ 29,6%.

Ở Việt Nam, một số nghiên cứu trong bệnh viện cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa rối loạn chuyển hóa lipid máu với bệnh đái tháo đường, tình trạng tăng huyết áp,


bệnh tim mạch [1,4,8,22,26]. Theo Phạm Gia Khải và cộng sự khi nghiên cứu ở Hà Nội (2001), trên 263 đối tượng cho thấy tỷ lệ tăng LDL_C là 51,27%, tăng CT 54,7%, tăng TG 41,9% và giảm HDL_C là 40,7%, tần xuất có ít nhất một chỉ tiêu lipid máu không nằm trong giới hạn bình thường là 78,8% [13]. Nghiên cứu của Nguyễn Huy Ngọc cho thấy tỷ lệ RLCHLPM trên bệnh nhân tai biến mạch máu não là 70,5% và 53,2% [20]. Theo Trần Đức Thọ và cộng sự (2000-2001) tỷ lệ RLCHLPM trên bệnh nhân giảm dung nạp glucose là 84% [25]. Nghiên cứu mô tả trên 3.438 bệnh nhân đến khám bệnh tại khoa khám bệnh viện Bạch Mai cho thấy: Cholesterol toàn phần trong máu cao chiếm 58,28%, Triglycerid cao 48,57% và LDL_C cao 23,87%; thấp HDL_C- C (28,08%) [28]. Rối loạn lipid máu ở bệnh nhân tai biến mạch máu não chiếm tới 70,5% bệnh nhân bệnh viện Trung ương Huế [23].

Ở nước ta, các nghiên cứu về tình trạng rối loạn lipid máu trên người trưởng thành thực hiện tại cộng đồng còn khá ít. Nghiên cứu của Phạm Thắng (2003) trên

1.305 đối tượng từ 60 tuổi trở lên cho thấy tỷ lệ rối loạn lipid máu chiếm 47,5% [24]. Nghiên cứu của Viện Tim mạch Việt Nam trong cuộc điều tra về bệnh tăng huyết áp cũng đã thu thập một số chỉ tiêu lipid máu trên các đối tượng nghiên cứu cho thấy tình trạng rối loạn lipid máu liên quan chặt chẽ với tăng huyết áp và bệnh tim mạch [12]. Gần đây, nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng (2004) ở người trưởng thành, tuổi từ 30-59 tuổi bị thừa cân, béo phì có choleserol toàn phần máu cao là 48,9%, triglycerid máu cao: 65,33%, LDL_C cao: 8,23%, HDL_C thấp: 7,22% [19]. Nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuấn năm 2004-2005 trên 2014 người trưởng thành từ 20-59 tuổi là giảng viên trường đại học Thái Nguyên, các cán bộ ngân hàng, công nhân tại các mỏ than và nhà máy xi măng, tỷ lệ tăng cholesterol và triglycerid đơn thuần là 36,4% và 8,8%, tỷ lệ tăng phối hợp cả cholesterol và triglyceride là 23,9% [29]. Năm 2008, kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lương Hạnh trên đối tượng người trưởng thành ở nội thành Hà Nội cho thấy, tỷ lệ RLCHLPM là 59,8%, tỷ lệ tăng cholesterol đơn thuần chiếm 47,2%, tăng triglyceride là 38,4%, tỷ lệ tăng phối hợp cholesterol và triglycerid là 25,4%, tình


trạng RLCHLPM có xu hướng tăng dần theo nhóm tuổi, nam giới có tỷ lệ cao hơn so với nữ giới [10].


1.4. HIỂU BIẾT VỀ TỎI VÀ FOLATE


1.4.1. Thành phần hóa học của tỏi


Tỏi được cả thế giới coi như là thực phẩm có lợi cho sức khỏe. Tỏi đã được viết cách đây 500 năm trong các tài liệu của người Hy Lạp và Ấn Độ. Theo bản dịch từ tiếng Hy Lạp, Ai Cập, Ý, Trung Quốc, tỏi được kê đơn cho đa mục tiêu trong y học bao gồm điều trị nhiễm trùng, tăng cường thể lực, chống độc [134,135].

Tỏi không chỉ đơn giản là gia vị, thảo dược hay là loại rau củ mà là tổng hòa của cả ba. Thuộc họ hành do vậy tỏi có đặc tính tương tự với hành, tỏi tây và rau thơm [134].

Một amino acid chứa lưu huỳnh được phân lập từ tỏi và đặt tên là alliin (S-allyl- L-cysteine sulfoxide). Bản thân alliin không có hoạt tính kháng khuẩn và tương đối bền. Alliin có hàm lượng từ 5 đến 14mg trong một gam tỏi tươi. Do có nhóm amin, carboxyl, liên kết đôi, nên alliin có khả năng phản ứng hóa học rất cao. Trong các điều kiện phản ứng khác nhau, alliin dễ dàng bị chuyển hoá để tạo ra các sản phẩm. Một trong những phản ứng chuyển hoá cơ bản và quan trọng nhất là sự tạo thành allicin (Diallyl thiosulfinate) dưới tác dụng của enzym allinase [52]. Sự chuyển hoá này xảy ra rất nhanh ở nhiệt độ phòng chỉ trong vòng 10 giây. Allinase có mặt trong tỏi với lượng lớn khác thường đối với một enzym, gồm ít nhất 10% tổng protein tép tỏi. Các tép tỏi chứa các lượng alliinase và alliin xấp xỉ bằng nhau (10mg/g trọng lượng tươi). Điều này có thể giải thích rõ tại sao alliin lại chuyển thành các thiosulfinate quá nhanh khi tỏi được ép ra [80].

Nhiều quy trình được sử dụng để sản xuất các sản phẩm tỏi dùng làm thuốc. Các quy trình đó cố gắng giữ lại chất đặc trưng alliin bằng cách tránh sự hoạt hoá của men


alliinase. Có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để làm mất hoặc giảm hoạt tính men alliinase như dùng các dung môi chiết xuất [ví dụ methanol/nước (4/1), methanol/acid formic 1% trong nước (1/2)] hoặc dung dịch chứa các chất ức chế alliinase như amino-oxy acetat...Tuy nhiên, dịch chiết này hoặc bột thu được từ dịch chiết này không chứa alliinase, một tác nhân để phân hủy alliin thành các hợp chất có hoạt tính. Vì vậy, chế phẩm tỏi này cần được bổ sung một lượng nhất định bột tỏi có chứa allinase đủ để chuyển hóa được hoàn toàn alliin. Ngoài ra, người ta còn sử dụng quy trình ngâm giầm tỏi để chuyển hoá nhanh chóng alliin thành allicin và các hợp chất chứa lưu huỳnh, rồi tiếp tục xử lý bằng hơi nước hoặc các dung môi khác [134].

Allicin là hoạt chất mạnh nhất và quan trọng nhất của tỏi, nó không hiện diện trong tỏi, tuy nhiên, khi được cắt mỏng hoặc đập dập và dưới sự xúc tác của men alliinase, chất alliin có sẵn trong tỏi biến thành allicin. Do đó, càng cắt nhỏ hoặc càng đập nát hoạt tính càng cao. Một ký tỏi có thể cho ra từ 1 - 2g allicin. Allicin dễ biến chất sau khi được sản xuất ra. Càng để lâu, càng mất bớt hoạt tính. Đun nấu sẽ đẩy nhanh quá trình mất chất này. Đun qua lò vi sóng sẽ phá hủy hoàn toàn chất allicin. Allicin là một chất kháng sinh tự nhiên rất mạnh, mạnh hơn cả penicillin. Nước tỏi pha loãng 125.000 lần vẫn có dấu hiệu ức chế nhiều loại vi trùng gram âm và gram dương như: staphylococcus, streptococcus, samonella, V. cholerae, B. dysenteriae, mycobacterium tuberculosis. Tỏi cũng ức chế sự phát triển của nhiều loại siêu vi như: bại liệt, cúm và một số loại nấm gây bệnh ở da hoặc bộ phận sinh dục nữ như candida [116].

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 04/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí