Một số vấn đề pháp lý cơ bản về kỷ luật lao động theo pháp luật Việt Nam
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
-------------
NGUYỄN HUY KHOA
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ KỶ LUẬT LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ : 60105
Có thể bạn quan tâm!
- Một số vấn đề pháp lý cơ bản về kỷ luật lao động theo pháp luật Việt Nam - 2
- Sự Điều Chỉnh Của Pháp Luật Về Kỷ Luật Lao Động Ở Một Số Nước Trên Thế Giới Và Ở Nước Ta Hiện Nay.
- Những Quy Định Của Pháp Luật Về Chế Độ
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. Nguyễn Hữu Viện
Nguyễn Huy Khoa 115 Cao học Luật
K8
HÀ NỘI - 2005
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Lao động là hoạt động sáng tạo có mục đích của con người. Quá trình lao động là quá trình tuân thủ các quy luật tự nhiên và xã hội để tạo ra các sản phẩm có giá trị mà con người mong muốn. Lao động của con người vừa mang tính chất cá nhân vừa mang tính chất xã hội. Khi con người lao động hợp tác làm chung với nhau thì cần phải được tổ chức, phối hợp theo một trật tự nhất định. Sự phân công và hợp tác lao động càng diễn ra ở trình độ cao thì trật tự của lao động chung càng đòi hỏi phải nghiêm ngặt, cái trật tự lao động chung đó chính là kỷ luật lao động. Bất cứ một nền sản xuất nào, xã hội nào cũng không thể thiếu được kỷ luật lao động. Để đạt được mục đích cuối cùng của sản xuất thì phải luôn có sự phối hợp đồng bộ giữa người lao động với người sử dụng lao động trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của từng người vào việc thực hiện kế hoạch chung. Xã hội ngày càng phát triển, trình độ phân công, tổ chức lao động trong xã hội ngày càng cao thì kỷ luật lao động ngày càng trở nên quan trọng.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, khi các tổ chức sản xuất, kinh doanh được quyền tự chủ trong hoạt động của mình, trong đó có quyền tự chủ đối với lĩnh vực tổ chức và quản lí lao động thì việc thiết lập và duy trì kỷ luật lao động trong đơn vị dụng lao động là một tất yếu khách quan. Việc thiết lập và duy trì kỷ luật lao động một cách thường xuyên trong đơn vị là một trong những điều kiện tất yếu để phát triển sản xuất kinh doanh, trên cơ sở đó nâng cao đời sống của người lao động.
Đối với nước ta hiện nay, khi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế; chúng ta chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới và trong khu vực, đẩy mạnh đầu tư nước ngoài, xuất khẩu lao động,…thì việc thiết lập, cũng cố và duy trì trật tự kỷ luật lao động theo hướng công nghiệp hiện đại là
một vấn đề đang mang tính thời sự nóng bỏng. Bởi những thói quen, tập quán, tác phong lao động của một nền sản xuất nhỏ lẻ, tiểu nông đang từng ngày, từng giờ đè nặng lên nề nếp làm việc của chúng ta, chúng đã gây nên biết bao thiệt hại trước mắt và cả lâu dài về sau nữa.
Với sự ra đời của Bộ luật Lao động năm 1994 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào năm 2002 đã có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tổ chức và quản lý lao động, mà trong đó chế độ lỷ luật lao động được coi là một trong những chế độ pháp lý quan trọng, chúng được quy định tương đối đầy đủ trong chươngVIII của Bộ luật Lao động và được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 41/NĐ - CP năm 1995.
Sau 10 năm thực hiện những quy định của pháp luật đối với chế độ kỷ luật lao động về cơ bản đã đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn lao động, sử dụng lao động và quản lý lao động của đất nước trong điều kiện mới, góp phần không nhỏ trong việc tao ra một trật tự, nền nếp trong các đơn vị sử dụng lao động; tạo được sự ổn định và phát triển bền vững của doanh nghiệp đồng thời nó đã thể hiện được vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trìng sản xuất, kinh doanh cũng như trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động.
Qua thực tiễn áp dụng chế độ kỷ luật lao động cho thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì chúng vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Sự nhận thức không đầy đủ về chế độ kỷ luật lao động của người lao động cũng như của người sử dụng lao động đang là một trong những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các tranh chấp giữa các bên. Những vụ tranh chấp về kỷ luật lao lao động đặc biệt là đối với hình thức kỷ lật sa thải người lao động, các tranh chấp về bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động có xu hướng ngày càng gia tăng và phức tạp. Tình trạng người sử dụng lao động lạm quyền; người lao động bị sa thải vô cớ, bị mất việc làm đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của người lao động nói riêng và trật tự xã hội nói chung mà nguyên nhân của những tồn tại này là do những quy định của pháp luật hiện hành còn
nhiều bất cập và công tác tổ chức thực hiện chưa được tiến hành một cách thường xuyên và triệt để. Do đó, việc tìm hiểu và nghiên cứu những quy định của pháp luật về kỷ luật lao động cũng như thực tiễn áp dụng chúng để từ đó tìm ra những nguyên nhân của các tồn tại trong việc áp dụng những quy định của pháp luật về kỷ luật lao động và thông qua đó để đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm đưa kỷ luật lao động ngày càng được thực hiện tốt và có hiệu quả là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn “ Một số vấn đề pháp lý cơ bản về kỷ luật lao động theo pháp luật Việt Nam ” là đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật học của mình.
Cho đến nay, tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội vẫn chưa có công trình chuyên biệt nào đề cập đến vấn đề “chế độ kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật hiện hành” với mục đích nghiên cứu riêng ở cấp độ Thạc sỹ. Chế độ kỷ luật lao động chỉ được điểm qua với tư cách là một chế định của luật lao động nhân việc nghiên cứu những nội dung của Bộ luật Lao động và mới dừng lại ở mức độ tìm hiểu pháp luật. Bên cạnh đó cũng đã có một số bài báo trong các tạp chí chuyên ngành đề cập đến vấn đề kỷ luật lao động nhằm làm rõ một số quy định của pháp luật, song trong phạm vi của một bài báo, các bài viết chưa đặt vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện từ phương diện lý luận đến thực tiễn áp dụng của chế độ kỷ luật lao động cũng như những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ này trong quan hệ lao động. Do vậy, có thể nói việc chọn và nghiên cứu đề tài “ Một số vấn đề pháp lý cơ bản về kỷ luật lao động theo pháp luật Việt Nam” là một công trình ngiên cứu đầu tiên ở cấp độ Thạc sỹ.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu của đề tài đặt ra là nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận có tính khái quát chung về kỷ luật lao động . Đồng thời nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của pháp luật về chế độ này ,trên cơ sở đó làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn, rút ra những nhận xét đánh giá về những kết quả đạt được, những điểm còn tồn tại trong việc thực hiện chế độ
kỷ luật lao động. Từ những nguyên nhân của những tồn tại đó và qua những nghiên cứu - tìm hiểu pháp luật của một số nước trên thế giới về kỷ luật lao động mà đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ này trong trong quan hệ lao động .
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Chế độ kỷ luật lao động là một chế định rất rộng và quy định về nhiều vấn đề khác nhau, do vậy tôi không có tham vọng đi tìm hiểu và giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến chế độ kỷ luật lao động. Với khả năng cũng như thời gian có hạn, nên trong đề tài này tôi chỉ tập trung vào giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về chế độ kỷ luật lao động ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, lý giải và bình luận các quy định của chế độ kỷ luật lao động chúng tôi có tham khảo , tìm hiểu những quy định của pháp luật một số nước trên thế giới .
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .
Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài được cụ thể thể bởi các nhiệm vụ chủ yếu sau :
Thứ nhất : Xem xét những vấn đề tổng quan về chế độ kỷ luật lao động và sự điều chỉnh của pháp luật đối với kỷ luật lao động .
Thứ hai : Tìm hiểu những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng chế độ kỷ luật lao động qua đó đưa ra nhận xét, đánh giá.
Thứ ba :Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận , những quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng chế độ kỷ luật lao động ở Việt Nam , chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất một số gải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ kỷ luật lao động .
4. Phương pháp nghiên cứu :
Cũng như nhiều khoa học pháp lý khác, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài , chúng tôi luôn lấy phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng của Hồ chủ tịch cũng như quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về quan hệ lao động trong cơ chế thị trường nói
chung và kỷ luật lao động nói riêng làm cơ sở phương pháp luận cho việc tìm hiểu và nghiên cứu nhằm đánh giá vấn đề theo một quan điểm đúng đắn, biện chứng và khoa học. Và trong từng nội dung cụ thể chúng tôi cũng đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau một cách có hệ thống và nhất quán nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu như sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, điều tra khảo sát …
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1 : Tổng quan về kỷ luật lao động.
Chương 2 : Những quy định của pháp luật về chế độ kỷ luật lao động ở Việt nam hiện nay và thực tiễn áp dụng.
Chương 3 : Phương hướng hoàn thiện pháp luật về chế độ kỷ luật lao động ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị.
CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN VỀ KỶ LUẬT LAO ĐỘNG
1.1. KHÁI NIỆM - Ý NGHĨA CỦA KỶ LUẬT LAO ĐỘNG .
1.1.1. Khái niệm về kỷ luật lao động
Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì thuật ngữ “Kỷ luật” được hiểu là tổng thể những điều quy định có tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức để đảm bảo tính chặt chẽ của tổ chức. Thông qua khái niệm về kỷ luật này chúng ta khẳng định rằng kỷ luật được coi là nền tảng để xây dựng xã hội, không có kỷ luật thì không thể điều chỉnh được mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và các hoạt động của họ trong các tổ chức xã hội. Kỷ luật được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý hiện hành và những chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Trong phạm vi quan hệ lao động, cũng với cách hiểu như trên về kỷ luật thì kỷ luật lao động cũng được coi là tổng thể những điều quy định có tính bắt buộc đối với mọi thành viên trong quá trình lao động. Tính chất của kỷ luật trong quá trình lao động do quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Mỗi khi phương thức sản xuất thay đổi thì bản chất và hình thức kỷ luật lao động cũng thay đổi theo cho phù hợp. Kỷ luật lao động là yếu tố tồn tại khách quan trong bất kỳ giai đoạn lịch sử chế độ xã hội nào. Khi con người biết lao động thì kỷ luật lao động xuất hiện với những nguyên nhân, điều kiện khách quan nhất định. Vì lao động là hoạt động của con người có mục đích, mà muốn hoạt động này có hiệu quả thì phải có những quy định đảm bảo cho kết quả đó được hình thành. Dưới chế độ cộng sản nguyên thủy, tự giác và bình đẳng là những quy tắc ứng xử trong quan hệ lao động cũng như trong phân phối sản phẩm.
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ thì giai cấp chủ nô có quyền lực vô hạn đối với nô lệ và gia đình họ. Bản thân người lao động cũng như mọi thành quả lao động của họ làm ra đều thuộc sở hữu của chủ nô. Kỷ luật lao động được
đặc trưng bằng chế độ lao động cưỡng bức và sự bóc lột tàn nhẫn của chủ nô đối với người nô lệ ở mọi nơi, mọi lúc.
Chuyển sang xã hội phong kiến, tuy người nông nô vẫn bị phụ thuộc vào lãnh chúa phong kiến, nhưng xét về một mặt nào đó thì địa vị của họ cũng còn khá hơn so với nô lệ. Tuy vậy, đối với người nông nô dù cày ruộng trên đất của mình, hay làm thuê cho lãnh chúa thì họ vẫn chưa thoát được kiếp lao động bị cưỡng bức và bị bóc lột thậm tệ bằng hình thức địa tô và bằng các hình thức lao dịch khác. Tổ chức lao động phong kiến đã dựa vào kỷ luật roi vọt cưỡng bức một cách thô bạo đối với quần chúng nông dân.
Trong chế độ tư bản, do được xây dựng trên quan hệ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, cho nên về bản chất, đây vẫn là một xã hội bóc lột, cho dù hình thức bóc lột tinh vi hơn rất nhiều - đó là hình thức bóc lột giá trị thặng dư. Chính vì thế, tổ chức lao động dựa vào kỷ luật cưỡng bức kinh tế đối với công nhân làm thuê.
Chúng ta thấy rằng, trong các hình thái kinh tế xã hội có đối kháng giai cấp, thì kỷ luật lao động thực chất chỉ là nhằm cưỡng chế người lao động đem hết sức lao động của mình để tạo ra những lợi ích vật chất cho giai cấp thống trị. Vì thế, kỷ luật lao động luôn có tính cưỡng bức, đối lập với quyền lợi của người lao động và được dùng làm một biện pháp để tăng cường bốc lột. Mặc dù hình thức và mức độ cưỡng bức có khác nhau nhưng bản chất của kỷ luật lao động trong các xã hội này chỉ là một mà thôi.
Cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là sự ra đời và phát triển của kỷ luật lao động mới. Kỷ luật lao động xã hội chủ nghĩa biểu hiện của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và quan hệ lao động hợp tác của những người lao động. Quan hệ sản xuất này đã tạo ra và khuyến khích mối quan hệ tự nguyện, tự giác đối với người lao động và coi lao động là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Trong tác phẩm của mình, Lênin đã