mức án tử hình tại các cuộc hội thảo nghiên cứu hoàn thiện Bộ luật hình sự sửa đổi của các chuyên gia, để từ đó đưa ra quan điểm:
Hình phạt tử hình quy định trong luật hình sự liên quan đến quyền sống của con người. Ở mỗi quốc gia, việc quy định hình phạt tử hình là khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội và chính trị ở mỗi nước. Hiện trên thế giới đã có rất nhiều nước bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự; những nước còn quy định thì hạn chế về số lượng và thi hành án tử hình cũng khác nhau. Có nước thi hành với số lượng ít, có nước có tuyên án tử hình nhưng cho hoãn không thi hành [87, tr. 110].
Khi nói đến quyền sống, thì theo các quy định của pháp luật quốc tế và trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng quy định rất rõ ràng đó là: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948 là tuyên ngôn đầu tiên chính thức được khẳng định: Quyền sống là quyền tự nhiên, cơ bản của con người. Còn tại khoản 1, điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966 (ICCPR) đã cụ thể hóa những quy định của UDHR như: “Mọi người đều có quyền cố hữu được sống. Quyền này Phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện” [40, tr. 255]. Theo đó việc áp dụng hình phạt tử hình không được trái với những quy định của ICCPR và của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng;… không được viện dẫn Điều 6 để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ hình phạt tử hình. Ở Việt Nam, quyền sống được ghi nhận từ rất sớm, ngay trong tuyên ngôn độc lập năm 1945 Hồ Chủ tịch đọc tại Quảng trường Ba đình lịch sử. Mặc dù trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 quyền sống không được đề cập trực tiếp nhưng được quy định gián tiếp thông qua các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền này mới được nêu trực tiếp trong Điều 19: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” [65, Điều 19]. Như vậy,
với những quy định này chúng ta nhận thấy: ở Việt Nam chúng ta hiện vẫn là một trong những nước trên thế giới duy trì hình phạt tử hình. Nhưng qua mỗi giai đoạn sửa đổi, số lượng tội danh có mức án tử hình cũng tăng giảm khác nhau, tuy nhiên lần sửa đổi gần nhất của Bộ luật hình sự 1999 vào năm 2009 hình phạt tử hình đã giảm xuống còn 22 tội danh; đến thời điểm hiện tại (27/11/2015) Quốc hội đã thông qua dự án luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 2015 đã giảm bớt, hiện chỉ còn 18 Điều. Về nguyên tắc, mặc dù việc áp dụng hình phạt tử hình đã tương thích với các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế, nhưng phạm vi áp dụng hình phạt này còn nhiều hơn so với các nước trên thế giới.
Trong khi đó tại một nghiên cứu khá chi tiết của PGS. TS. Trịnh Quốc Toản về “Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam”, tác giả đã đi sâu phân tích khá chi tiết đồng thời đưa ra quan điểm:
Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của Nhà nước, tước đi quyền quan trọng và thiêng nhất của con người, đó là quyền sống. Xuất phát từ quan điểm hình phạt tử hình (cho dù thể thức thi hành nó trong thực tế như thế nào cũng là một hình phạt dã man, phi luân lý, vô ích, không có tác dụng răn đe người phạm tội). Việc duy trì hình phạt này không có tác dụng làm giảm tội phạm, kể cả các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [87, tr. 148].
Trong thực tiễn nhiều năm áp dụng cho thấy, hình phạt nghiêm khắc thái quá chưa thể hiện rõ nét có tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bởi lẽ mục đích của hình phạt phải là giáo dục con người lầm lỗi trở thành người có ích cho xã hội. Đặc biệt khi pháp luật đóng sập cánh cửa cho việc hoàn lương đối với người phạm tội đều không có ý nghĩa phòng ngừa tích cực… Chính vì lẽ đó mà không phải ngẫu nhiên mà Nghị quyết số 49-NQ/TW đã khẳng định tính hướng thiện của hình phạt “hạn chế
áp dụng hình phạt tử hình” Đây có thể coi đó là một chỉ đạo định hướng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về chính sách hình sự trong chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020.
Bên cạnh đó có ý kiến cho rằng: quyền sống của kẻ phạm tội có thể thay thế bằng biện pháp khác có thể tiêm thuốc làm mất khả năng phạm tội, không nhất thiết phải tước đi quyền sống của kẻ phạm tội mà vẫn đạt được mục tiêu ngăn ngừa tái phạm, răn đe tội phạm chung.
Việc đề xuất bỏ án tử hình [87] một số quan điểm còn dựa trên lập luận cho rằng: mức độ nguy hiểm cho xã hội mà một số tội gây ra như: (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phong bệnh; chống mệnh lệnh và đầu hàng địch). Bởi trong thực tế nhiều năm chúng ta chưa áp dụng hình phạt tử hình cho nhóm tội danh này. Quan điểm này cũng được nhiều chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật đồng tình. Còn các nhóm về xâm phạm an ninh quốc gia các quan điểm cũng đồng tình nên xóa bỏ với những lập luận đó là chế độ chính trị của nước ta tương đối ổn định. Cùng với chính sách nhân đạo thì trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta đã có những biện pháp chống lại âm mưu diễn biến hòa bình, nói xấu chế độ nên các hành vi phạm tội xâm phạm an ninh ít xảy ra hoặc tính chất, mức độ, hậu quả thường chưa đến mức phải phạt tử hình. Tương tự một số tội thông thường cũng như vậy (Ví dụ: tội cướp tài sản, buôn lậu…).
Có thể bạn quan tâm!
- Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam - 1
- Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam - 2
- Cơ Sở Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu
- Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam - 5
- Đối Tượng Và Phạm Vi Của Việc Hạn Chế Và Tiến Tới Xóa Bỏ Hình Phạt Tử Hình
- Phạm Vi Hạn Chế (Không) Áp Dụng Hình Phạt Tử Hình Đối Với Một Số Tội Danh Trong Bộ Luật Hình Sự
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Còn quan điểm về việc giảm số lượng tội danh có mức án tử hình thì TS. Trần Công Phàn-chuyên gia nghiên cứu chính sách pháp luật cũng đều cho rằng hiện tại Bộ luật hình sự hiện hành của chúng ta vẫn còn 22/272 tội có mức án tử hình, chiếm tỷ lệ 8% trong tổng số các tội danh có trong Bộ luật hình sự như hiện nay là cao vì thế cần thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình [57, tr. 10].
Cùng quan điểm trên, tại hội thảo nghiên cứu hoàn thiện BLHS do
chương trình phát triển của liên hợp quốc (UNDP) và Bộ Tư pháp tổ chức vào tháng 11/2014, các chuyên gia đã đề xuất giảm 09 tội danh, bao gồm (Hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản; sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tàng trữ vận chuyển trái phép chất ma túy; phá hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; tham ô tài sản; nhận hối lộ; chống mệnh lệnh và tội đầu hàng địch. Đặc biệt là tại cuộc hội thảo lấy ý kiến sửa đổi Bộ luật hình sự do Ủy Ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, các chuyên gia cũng đã tập trung vào một số vấn đề như bỏ hình phạt tử hình ở một số tội, bỏ hẳn nhiều tội thực tế chưa bao giờ áp dụng, thu hẹp hành vi trong một số tội danh. Theo ông Trần Công Phàn- Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho biết: hiện nay, có 22 tội danh có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Qua tổng kết thi hành Bộ luật hình sự cho thấy có một số tội danh rất ít khi tòa án xử phạt đến tử hình, thậm trí có tội chưa bao giờ tòa áp dụng mức hình phạt cao nhất này. Đặc biệt tại cuộc hội thảo này PGS.TS. Trịnh Quốc Toản - Quyền chủ nhiệm khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra dẫn chứng một cách cụ thể có tính thuyết phục về những tội danh có khung hình phạt tử hình nhưng chưa bao giờ áp dụng trong thực tiễn đó là: các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Tội phản bội tổ quốc; Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Tội bạo loạn; Tội hoạt động phỉ; Tội phá hoại cơ sở vật chất của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy; Tội chống mệnh lệnh; Tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện, kỹ thuật quân sự; các tội phạm quốc tế. Do đó tác giả cho rằng, đối với Việt Nam trong giai đoan hiện nay, việc duy trì hình phạt tử hình là cần thiết, nhưng nên cân nhắc tiếp tục loại bỏ hình phạt này đối với một số tội phạm khác, trong đó bao gồm cả những tội phạm mà trong thực tiễn xét xử từ năm 1993 đến năm 2010 đã không bị áp dụng hình phạt tử hình (đã xóa bỏ trong thực tiễn áp dụng) [87, tr. 122-123].
1.2. Hình phạt tử hình và cơ sở nhằm giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt này trong luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái niệm về hình phạt tử hình
Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của luật hình sự do Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (thường được gọi là tội tử) để loại trừ vĩnh viễn người đó ra khỏi đời sống xã hội. Quan niệm về tội phạm như thế nào là đặc biệt nghiêm trọng và có thể áp dụng hình phạt tử hình không giống nhau ở những thời đại khác nhau cũng như ở những quốc gia khác nhau. Hình phạt tử hình là việc “tước bỏ tính mạng của một người, còn theo nghĩa thì chữ “tử hình” là có nguồn gốc từ “Hán Việt, có nghĩa là hình phạt chết” [40, tr. 12].
Các nước theo hệ thống luật Anglo - Saxon, hình phạt tử hình trong luật hình sự được định nghĩa là một hình phạt tước đi mạng sống của người phạm tội, được áp dụng đối với những người phạm tội nghiêm trọng (felony).
Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi năm 2009 của Việt Nam tại Điều 35 có quy định: “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng” [64, Điều 35]; Còn tại Bộ luật hình sự 2015 thông qua ngày 27/11/2015 tại khoản 1 Điều 40 có quy định:
Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định [66, Điều 40].
Với tư cách là một loại hình phạt đặc biệt trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam. Tính chất đặc biệt của nó sẽ được phân tích trong phần các quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về hình phạt tử hình ở Chương 2 của luận văn này. Tuy nhiên, khi nghiên cứu đặc điểm, khái niệm
hình phạt tử hình trong BLHS Việt Nam hiện hành, chúng tôi thấy khái niệm của một số cấu thành chưa phù hợp với đặc điểm kinh tế và tình hình hội nhập trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Đó là: theo quy định trên thì hình phạt tử hình “chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”. Trong khi đó khoản 3 điều 8 BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 (khoản 4 Điều 9 BLHS năm 2015) quy định: tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là “trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” [64, Điều 8]; [66, Điều 9]. Như vậy, khái niệm này chưa phải thực chất của tính đặc biệt nghiêm trọng, khái niệm còn quá rộng, dễ hiểu nhầm. Vì vậy, theo quan điểm của tôi, đoạn này nên được sửa lại là hình phạt tử hình “chỉ áp dụng đối với người phạm tội có tính chất đặc biệt nguy hiểm cao cho xã hội”. Thứ hai, khái niệm hình phạt tử hình trong BLHS hiện hành cũng không biểu hiện nội dung của hình phạt này. Nội dung của hình phạt tử hình là tước đi mạng sống của người phạm tội. Nội dung này luôn được thể hiện trong các khái niệm hình phạt tử hình dù là dưới góc độ văn hoá hay pháp luật.
Vì vậy, từ những phân tích các đặc điểm của hình phạt tử hình và những nội dung phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hình phạt tử hình như sau: “Tử hình là hình phạt đặc biệt nghiêm khắc trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam, tước đi quyền sống của người phạm tội bị kết án và chỉ được áp dụng đối với những người phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự”.
1.2.2. Các đặc điểm của hình phạt tử hình
Hình phạt tử hình, với tư cách là một loại hình phạt đặc biệt trong hệ thống hình phạt của luật hình sự, vì vậy hình phạt tử hình có đầy đủ các đặc điểm chung của hình phạt và đồng thời cũng có cả những đặc điểm riêng biệt mang tính tàn khốc của hình phạt này.
Đặc điểm chung
1) Hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật hình sự.
Luật hình sự với nhiệm vụ quan trọng đó là đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm mà công cụ để thực hiện nhiệm vụ này là hình phạt. Do đó, hình phạt là một trong những chế định quan trọng nhất được quy định trong BLHS. Hình phạt khi được áp dụng nghĩa là tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của người phạm tội. Chính vì vậy để tránh tuỳ tiện trong áp dụng hình phạt thì việc áp dụng hình phạt cũng như xác định tội phạm cần phải được BLHS quy định, có giá trị pháp lý chỉ sau Hiến pháp quy định. Điều 26 BLHS hiện hành nêu rõ: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất …Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định.” [62]; [64, tr.18]. Quy định này chính là biểu hiện của sự tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế trong xây dựng và áp dụng luật hình sự, đồng thời biểu hiện sự quán triệt của chính sách hình sự nước ta trong việc quy định và áp dụng hình phạt. Tinh thần đó thể hiện ở chỗ ngoài những hình phạt được quy định trong BLHS, không một biện pháp cưỡng chế nào được áp dụng với tính cách là hình phạt.
Với đặc điểm là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt nên trong BLHS, hình phạt tử hình được quy định ở cả phần chung và phần các tội phạm. Ở phần chung, Điều 35 (Điều 40 BLHS năm 2015) quy định hình phạt tử hình với tư cách là hình phạt chính với các nội dung: khái niệm hình phạt tử hình, các trường hợp không được áp dụng hình phạt tử hình, không được thi hành hình phạt tử hình và trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm. Ở phần các tội phạm, hình phạt tử hình được quy định là chế tài lựa chọn kèm theo các tội phạm cụ thể. Theo BLHS hiện hành, hình phạt tử hình được quy định tại 22 điều luật và BLHS năm 2015 thông qua ngày 27/11/2015 quy định 18 điều luật.
2) Hình phạt tử hình do Toà án nhân danh Nhà nước quyết định
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp…” [65, Điều 102]. Điều 26 BLHS hiện hành (Điều 30 BLHS năm 2015) quy định: Hình phạt “do Toà án quyết định”, quy định này phù hợp với nguyên tắc Hiến định. Mặt khác các quy định của luật tố tụng cũng đã thừa nhận điều đó, bởi lẽ một số lĩnh vực khác (không phải hình sự), không bắt buộc Toà án phải giải quyết (chẳng hạn lĩnh vực kinh tế, dân sự, hành chính), những lĩnh vực này các đương sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, không thông qua Toà án. Duy nhất, trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án buộc phải thông qua các khâu tố tụng được quy định hết sức chặt chẽ và nghiêm ngặt. Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án hình sự có ảnh hưởng rất lớn đối với người phạm tội, biểu hiện cụ thể qua việc quyết định hình phạt. Vì thế, Nhà nước đã giao cho các cơ quan trong Bộ máy Nhà nước, đại diện mình, thực hiện các khâu trong quá trình tố tụng đảm bảo chặt chẽ từ điều tra (Công an), truy tố (Viện kiểm sát). Đối với hoạt động xét xử và quyết định hình phạt, Nhà nước giao cho Toà án. Trong đó, khâu xét xử và quyết định hình phạt được xem là quan trọng nhất, bởi vì: tại Điều 9 BLTTHS 2003 quy định: “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” [61, Điều 9].
Do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội và hậu quả pháp lý của hình phạt, Nhà nước đã trao cho Tòa án toàn quyền quyết định hình phạt một cách độc lập mà không chịu sự chi phối của bất kỳ cơ quan nào mà chỉ tuân theo pháp luật. Trong việc quyết đình hình phạt tử hình cũng không ngoại lệ. Việc Chủ tịch nước xem xét đơn xin ân giảm của người bị kết án tử hình không phải là hoạt động xét xử và việc chấp nhận hay bác đơn xin ân giảm cũng không phải là hoạt động quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt tử hình của Tòa án là hoạt động trên cơ sở căn cứ vào hành vi phạm tội được thực hiện, đối chiếu các quy định của BLHS, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân