Một số giải pháp phát triển dịch vụ hàng không của tổng công ty hàng không Việt Nam đến năm 2015 - 2


vật chất như đối với dịch vụ thiết kế thì các bản vẽ là hữu hình và có thể lưu trữ được.

Thứ tư là tính không ổn định và khó xác định chất lượng: chất lượng dịch vụ không đồng nhất, nó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ như người cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng. Ví dụ, chất lượng giáo dục của một trường đại học có thể khác nhau khi nó được giảng dạy bởi những giáo viên có trình độ khác nhau. Ngay cả khi cùng một giáo viên giảng dạy, bài giảng cũng có thể thành công với lớp học này nhưng lại không thành công với lớp học khác do mức độ thành công của nó không chỉ phụ thuộc vào trình độ của giáo viên mà còn phụ thuộc vào các phương tiện kỹ thuật trợ giúp và tâm lý của họ ở những thời điểm khác nhau…

1.1.1.2. Các phương thức cung cấp dịch vụ

Trong điều 1, khoản 2 của Hiệp định GATS liệt kê 4 phương thức cung cấp dịch vụ như là định nghĩa về thương mại dịch vụ.

Bốn phương thức cung cấp dịch vụ đó là:

- Cung cấp qua biên giới (Cross border): Dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên này vào trong lãnh thổ của một nước thành viên khác. Trong phương thức này, chỉ có dịch vụ được chuyển qua biên giới còn người cung cấp dịch vụ thì không dịch chuyển. Ví dụ như việc cung cấp thông tin và tư vấn qua fax hoặc thư điện tử hoặc việc vận chuyển hàng hoá. Người cung cấp dịch vụ không xuất hiện trên lãnh thổ của nước thành viên tiêu dùng dịch vụ đó.

- Tiêu thụ ở nước ngoài (Consumption abroad): Hình thức này liên quan tới các dịch vụ được tiêu thụ bởi công dân của một nước thành viên trên lãnh thổ của một nước thành viên khác (nơi mà dịch vụ được cung cấp). Nói cách khác, dịch vụ được cung cấp cho người tiêu dùng ở ngoài lãnh thổ mà người tiêu dùng đó cư trú thường xuyên. Điển hình cho hình thức này là dịch vụ du


lịch, hoặc dịch vụ sửa chữa tài sản của người tiêu dùng như sửa chữa tàu biển ở nước ngoài.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 86 trang tài liệu này.

- Hiện diện thương mại (Commercial presence): Trong hình thức này dịch vụ được cung cấp bởi người cung cấp dịch vụ của một thành viên, qua sự “ hiện diện thương mại” trong lãnh thổ của bất cứ thành viên nước nào khác. Để cung cấp dịch vụ theo hình thức này người cung cấp dịch vụ phải thành lập một công ty, một chi nhánh, một văn phòng đại diện, hay là một liên doanh…v.v. tại nước tiêu thụ dịch vụ để cung cấp dịch vụ.

- Hiện diện của thể nhân (Presence of natural person): Hình thức này chỉ áp dụng với nhà cung cấp dịch vụ là các thể nhân, trong đó các thể nhân này sẽ hiện diện trực tiếp ở nước tiêu thụ để cung cấp dịch vụ. Đây là trường hợp cung cấp dịch vụ của những người tự kinh doanh hay những người làm việc cho các nhà cung cấp dịch vụ…

Một số giải pháp phát triển dịch vụ hàng không của tổng công ty hàng không Việt Nam đến năm 2015 - 2

Đối với hai hình thức đầu, người cung cấp dịch vụ ở ngoài nước thành viên, còn hai hình thức sau, người cung cấp dịch vụ làm việc ở nước thành viên mà dịch vụ được cung cấp.

1.1.2. Khái niệm dịch vụ vận tải

Ngành giao thông vận tải là một trong những ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng của nền kinh tế quốc dân, nó được ví như hệ thống tuần hoàn máu trong cơ thể sống của con người. Chẳng những vậy, khi còn sống Hồ chủ tịch đã từng nói rằng: “ Giao thông vận tải rất quan trọng, quan trọng đối với chiến đấu, đối với sản xuất, đối với đời sống nhân dân. Nó như mạch máu của con người. Muốn chiến đấu tốt, muốn sản xuất tốt, muốn đời sống nhân dân bình thường, thì giao thông vận tải phải làm tốt”1. Vậy vận tải là gì?

Theo nghĩa rộng, vận tải là một quy trình kỹ thuật của bất kỳ sự di chuyển vị trí nào của vật phẩm và con người. Còn với ý nghĩa kinh tế (nghĩa


1 Nguồn: Báo nhân dân số ra ngày 24/03/1976


hẹp), vận tải chỉ bao gồm những sự chỉ chuyển của vật phẩm và con người khi thoả mãn đồng thời hai tính chất: là một hoạt động sản xuất và là một hoạt động kinh tế độc lập. Vậy tóm lại ta có thể thấy rằng, vận tải là một hoạt động kinh tế có mục đích của con người nhằm đáp ứng nhu cầu di chuyển vị trí của đối tượng vận chuyển.

1.1.3. Khái niệm dịch vụ vận tải hàng không

Dịch vụ vận tải hàng không là hình thức dịch vụ chuyên chở hàng hoá và hành khách trong không gian bằng máy bay nhằm đạt mục đích nhất định.

So với các phương thức vận tải khác, vận tải hàng không là một ngành vận tải còn rất non trẻ. Nếu vận tải đường biển đã hình thành và phát triển từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên thì vận tải hàng không mới chỉ ra đời và phát triển từ những năm đầu của thế kỷ XX. Mặc dù vậy sự ra đời của vận tải hàng không đã đánh dấu một bước tiến lớn của con người. Nó có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, trong giao lưu kinh tế giữa các nước, các dân tộc, là phương tiện chính trong du lịch quốc tế. Bên cạnh đấy, vận tải hàng không là phương tiện chuyên chở có tốc độ cao nhất vì vậy nó thường dùng để vận chuyển hàng hoá khẩn cấp, cần giao ngay; là mắt xích quan trọng trong quy trình vận tải đa phương thức. Với những lợi ích to lớn như vậy, vận tải hàng không luôn chiếm vị trí quan trọng bậc nhất trong ngành giao thông vận tải.‌

1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DỊCH VỤ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG

1.2.1. Đặc điểm của dịch vụ vận tải hàng không.

1.2.1.1. Các đặc điểm và đối tượng chuyên chở của dịch vụ vận tải hàng không.


Vận tải hàng không là một loại hình dịch vụ vận tải. Công việc kinh doanh này đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn, chi phí lớn. Tất cả các hoạt động và công tác phục vụ liên quan đến một chuyến bay phải được chuẩn bị một cách chu đáo thì hoạt động hàng không mới có thể đạt hiệu quả cao. Hiểu một cách đơn giản nhất, sản phẩm của ngành hàng không chính là dịch vụ chuyên chở hành khách và hàng hoá. Để thực hiện một chuyến bay có rất nhiều các công việc liên quan khác như lên lịch cho các chuyến bay, sắp xếp chỗ cho hành khách trên một chuyến bay, phục vụ suất ăn và chương trình giải trí cho khách, cung cấp vé, làm các thủ tục tại sân bay, tiếp nhận và giao trả hành lý cho khách cùng nhiều dịch vụ khác đi kèm. Như vậy, có thể thấy rằng: kinh doanh vận tải hàng không là một chuỗi các công việc được thực hiện một cách logic, liên kết và ăn ý với nhau. Sự thành công của doanh nghiệp khi cung ứng dịch vụ vận tải hàng không chỉ đạt được khi mọi khâu, mọi hoạt động trong cả chuỗi những hoạt động đó được thực hiện một cách hoàn hảo. Dịch vụ vận tải hàng không còn phụ thuộc rất lớn vào thái độ và nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Ở mỗi khu vực thị trường khác nhau, nhu cầu của khách hàng về dịch vụ hàng không cũng khác nhau.

Kinh doanh vận tải hàng không mang đầy đủ tính chất đặc trưng của bất kỳ một loại dịch vụ nào:

Đặc tính đầu tiên và cũng là đặc tính dễ dàng nhận thấy nhất của loại hình dịch vụ này là tính vô hình. Đây là loại sản phẩm mà người tiêu dùng chúng không thể nhận thấy cũng như không thể cầm nắm hay cảm nhận được trước khi tiêu dùng chúng. Để giảm bớt mức độ không chắc chắn, người tiêu dùng sẽ tìm kiếm những dấu hiệu hay bằng chứng về chất lượng của dịch vụ. Họ sẽ suy diễn về chất lượng dịch vụ từ địa điểm, con người, trang thiết bị, tài liệu thông tin, biểu tượng và giá cả mà họ thấy. Vì vậy, nhiệm vụ của người cung ứng dịch vụ là vận dụng những điều kiện vật chất cụ thể để biến cái vô hình thành cái hữu hình cho sự nhận biết của người tiêu dùng được rõ ràng và cụ thể hơn. Đó là các bến bãi, sân bay, thái độ cư xử của nhân viên ngành


hàng không đối với khách, là các hoạt động dịch vụ trên máy bay như cung ứng suất ăn và các chương trình giải trí, sự đúng giò của các chuyến bay... Chính vì đặc tính vô hình này mà việc vật chất hoá nó càng được chú trọng và quan tâm hơn bao giờ hết.

Dịch vụ vận tải hàng không mang đặc tính không tách rời. Việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Hãng hàng không cung cấp cho khách hàng dịch vụ hàng không bao gồm chỗ ngồi trên máy bay và nhiều dịch vụ khác đi kèm khác. Nếu tất cả mọi sự cung ứng đó được khách hàng chấp thuận và tiêu dùng nó thì sự cung ứng dịch vụ hàng không mới được coi là hiệu quả. Khách hàng và người cung ứng dịch vụ hàng không cùng tham gia vào quá trình thực hiện dịch vụ. Sự tác động qua lại của cả hai bên đều ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của dịch vụ.

Dịch vụ vận chuyển hàng không cũng mang tính không đồng nhất. Đó là do đặc trưng cá biệt hoá cung ứng và tiêu dùng dịch vụ. Sự cung ứng dịch vụ cho mỗi chuyến bay được thực hiện bởi các nhân viên khác nhau. Hơn nữa việc tiêu dùng và cảm nhận dịch vụ của mỗi hành khách là khác nhau, tuỳ thuộc vào sự đánh giá của từng người. Vì thế rất khó xác định mức độ chất lượng chính xác của loại hình sản phẩm dịch vụ này.

Một đặc điểm khác nữa của sản phẩm dịch vụ vận chuyển hàng không là tính không lưu giữ được ( hay tính mau hỏng). Một chuyến bay được thực hiện nếu số ghế cung ứng vượt quá số nhu cầu được hành khách chấp nhận thì số ghế thừa này coi như bị bỏ. Mức cung ứng dư thừa này không thể cất trữ được cho những chuyến bay sau.

Đối tượng chuyên chở của vận tải hàng không gồm 3 nhóm khách hàng chính, đó là:

- Thư, bưu kiện : gồm thư từ, bưu kiện, bưu phẩm dùng để biếu tặng, vật kỷ niệm... Những mặt hàng này thường đòi hỏi phải vận chuyển nhanh và an toàn cao.


- Hàng chuyển phát nhanh : gồm các loại chứng từ, sách báo, tạp chí và đặc biệt là hàng cứu trợ khẩn cấp.

- Hàng hoá thông thường: là những hàng hoá thích hợp vận chuyển bằng máy bay. Trong tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng máy bay thì 80% là hàng hoá thông thường, 16% là hàng hoá chuyển phát nhanh và 4% là bưu phẩm, bưu kiện. Hàng hoá thông thường được vận chuyển bằng máy bay gồm các loại sau:

+ Hàng hoá có giá trị cao như vàng, bạch kim, đá quý, tiền, séc du lịch, thẻ tín dụng…

+ Hàng hoá dễ hư hỏng do thời gian: gồm những loại hoa quả tươi, thực phẩm đông lạnh...

+ Hàng hoá nhạy cảm với thị trường: gồm những loại hàng mốt, hàng thời trang...

+ Động vật sống: gồm những động vật nuôi trong nhà, vườn thú... Động vật sống khi vận chuyển đòi hỏi phải kiểm dịch, chăm sóc đặc biệt và phải vận chuyển nhanh để đảm bảo chất lượng.

1.2.1.2. Ưu điểm và hạn chế của dịch vụ vận tải hàng không.

a. Ưu điểm:

Tuyến đường trong vận tải hàng không là không trung và hầu như là đường thẳng, không phụ thuộc vào địa hình mặt đất, mặt nước, không phải đầu tư xây dựng. Tuy nhiên việc hình thành các đường bay cũng phụ thuộc ít nhiều vào điều kiện địa lý, khí tượng của từng vùng. Thông thường đường hàng không bao giờ cũng ngắn hơn đường sắt và đường bộ khoảng 20% và đường biển 30%.

Tốc độ vận tải cao, thời gian vận tải ngắn. Có thể nói vận tải hàng không có tốc độ cao nhất rút ngắn thời gian vận tải. Nếu như trên một quãng đường 500km thì với loại máy bay bình thường chỉ mất khoảng 1giờ thì tầu hoả mất hơn 8 giờ, ô tô là 10 giờ, và đường biển là 27 giờ.


Vận tải hàng không luôn đòi hỏi sử dụng công nghệ cao, do tốc độ cao và chủ yếu là chuyên chở con người và hàng hoá có giá trị cao vì vậy cần có một sự an toàn tuyệt đối trong quá trình vận tải bởi tính chất hủy diệt nghiêm trọng một khi tai nạn xảy ra cho nên vận tải hàng không không cho phép một sự sai sót nào kể cả nhỏ nhất. Vận tải hàng không luôn cải tiến và ứng dụng những công nghệ tiên tiến của thế giới.

Do đặc tính trên mà vận tải hàng không được coi là an toàn nhất, tỉ lệ tai nạn, thiệt hại trong vận tải bằng đường hàng không thấp hơn rất nhiều so với các hình thức vận tải khác.

Vận tải hàng không cung cấp các dịch vụ có tiêu chuẩn cao hơn hẳn các phương thức vận tải khác, được đơn giản hóa về thủ tục và chứng từ do máy bay bay thẳng ít qua các trạm kiểm tra, kiểm soát.

b. Hạn chế:

Cước phí vận tải hàng không rất cao do chi phí trang thiết bị, chi phí máy bay, chi phí các dịch vụ phục vụ, nếu so sánh cước vận tải hàng không cho 1kg hàng trên cùng một tuyến đường từ Hàn Quốc đi Marseille của Pháp thì cước máy bay là 6 USD trong khi đó tàu biển chỉ khoảng 1 USD. Giá cước cao nên vận tải hàng không bị hạn chế đối với việc vận chuyển mặt hàng có giá trị thấp, khối lượng lớn do chi phí vận chuyển chiếm một tỉ lệ quá lớn trong giá bán của hàng hoá, như vậy sức cạnh tranh của hàng hoá đó sẽ bị suy giảm so với các mặt hàng cùng chủng loại, hay mặt hàng thay thế.

Vận tải hàng không cũng bị hạn chế trong việc chuyên chở hàng hoá khối lượng lớn, hàng cồng kềnh do máy bay có trọng tải và dung tích nhỏ, loại máy bay lớn nhất hiện nay chỉ có khả năng chuyên chở tối đa 110 tấn hàng, nếu kết hợp chở khách với chở hàng thì chỉ chở khoảng 15-20 tấn. Trong khi đường biển có những con tàu có thể chuyên chở tới hàng chục vạn tấn.

Vận tải hàng không đòi hỏi đầu tư lớn về cơ sở vật chất kỹ thuật cho máy bay, sân bay, trang thiết bị, nhà ga, hệ thống dịch vụ... Do vậy các nước đang


phát triển, các nước nghèo gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển vận tải hàng không do thiếu vốn, thiếu thiết bị công nghệ hiện đại.

Cơ sở vật chất kỹ thuật của vận tải hàng không.

- Máy bay:

Máy bay là cơ sở vật chất chủ yếu trong vận tải hàng không.

Do có tính đồng nhất và quốc tế hóa cao của sản phẩm hàng không nên không có sự khác nhau đáng kể trong việc vận chuyển hành khách trên các máy bay khác nhau. Một hành khách có thể bắt đầu chuyến đi của mình tại một sân bay nhỏ bằng một chiếc máy bay nhỏ rồi chuyển sang một chiếc Jumbo B747-400 tại một sân bay lớn và cuối cùng kết thúc chuyến đi trong một chiếc máy bay tầm ngắn như một chiếc Fokler 50.

Có nhiều loại máy bay khác nhau tuỳ thuộc vào tính năng kỹ thuật, mức độ sử dụng, nước sản xuất. Tuy nhiên, sự khác nhau cơ bản giữa các máy bay là kích cỡ của nó, điều này sẽ quyết định đến số lượng hành khách (hoặc hàng hóa) có thể chuyên chở được, tốc độ và quãng đường tối đa mà nó có thể đi thẳng.

- Sân bay:

Tính đến cuối năm 2006, có hơn 80 sân bay của 46 hãng trên thế giới được xếp hạng lớn nhất trên thế giới. Tuy đứng đầu vẫn là các công ty của Mỹ và Châu Âu nhưng về tốc độ tăng lượng khách và hàng hoá thi Châu Á vẫn đứng đầu, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, hàng chục tỷ USD đang được chi cho xây dựng và hiện đại hoá các sân bay trong khu vực để đủ khả năng đáp ứng được lượng hành khách và hàng hoá đang tăng lên. Theo đánh giá của ATAG thì cần có 200 tỷ USD cho các chương trình xây dựng và hiện đại hoá của khu vực này.

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động dịch vụ vận tải hàng không.

1.2.2.1. Cầu:

Dịch vụ vận tải hàng không chính là một phần của sản phẩm lớn trong đó sản phẩm lớn bao gồm cả giải trí, thương mại (mua bán tại các cửa hàng miễn

Xem tất cả 86 trang.

Ngày đăng: 07/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí