Mỗi buồng khách phải có giường, điện thoại và vô tuyến. ngoài dịch vụ buồng ngủ có các dịch vụ đi kèm khác. [2]
Như vậy, chúng ta có thể hiểu khách sạn là một công trình kiến trúc được xây dựng để cung cấp dịch vụ lưu trú của khách du lịch, với mục đích thu lại lợi nhuận. Ngoài ra, để mở rộng đáp ứng thêm các nhu cầu khác của con người, khách sạn còn cung cấp các dịch vụ khác như ăn uống, vui chơi, giải trí... Tùy vào hạng khách sạn mà mức tiện nghi được cung cấp cho khách có thể ở hạng mức tối thiểu hoặc cao hơn. Cụ thể như tại các khách sạn nhỏ, mỗi phòng cơ bản chỉ có một phòng ngủ và 1 phòng vệ sinh cùng quầy bar nhỏ, các dịch vụ bổ sung như xe đưa đón, quầy lưu niệm, phòng tập thể thao, hồ bơi, spa hầu như không có. Trong khi các khách sạn lớn, các tiện ích trong phòng đa dạng hơn, phòng nghỉ hạng đặc biệt còn có thêm phòng khách, bếp nhỏ và quầy bar riêng, có nơi còn thêm hồ bơi riêng.
1.1.1.2. Khái niệm kinh doanh khách sạn:
Kinh doanh khách sạn là một trong những ngành nghề kinh doanh chính trong hoạt động kinh doanh du lịch. Trải qua nhiều giai đoạn của quá trình phát triển ngành du lịch, khái niệm “kinh doanh khách sạn” được hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau.
Đầu tiên, kinh doanh khách sạn chỉ là hoạt động kinh doanh dịch vụ nhằm đảm bảo chỗ ngủ qua đêm cho khách có tiền. Sau đó, cùng với sự phát triển những nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của khách du lịch, những nhà kinh doanh khách sạn tổ chức thêm hoạt động kinh doanh ăn uống để tăng lợi nhuận. Trong thời gian này, kinh doanh khách sạn được hiểu là hoạt động cung cấp dịch vụ nhu cầu nghỉ ngơi và ăn uống cho khách. [8]
Do đó, khái niệm về hoạt động kinh doanh khách sạn có thể được hiểu theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa rộng: Kinh doanh khách sạn là hoạt động cung cấp dịch vụ phục vụ theo nhu cầu ăn uống và nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí cho khách.
Có thể bạn quan tâm!
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật tại nhà hàng Square - Khách sạn Novotel Danang Premier Han River - 1
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật tại nhà hàng Square - Khách sạn Novotel Danang Premier Han River - 2
- Theo Hình Thức Mức Độ Liên Kết Và Quyền Sở Hữu
- Vị Trí, Vai Trò Và Nhiệm Vụ Của Bộ Phận Nhà Hàng Trong Kinh Doanh Khách Sạn
- Hệ Thống Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Tại Bộ Phận Nhà Hàng
Xem toàn bộ 163 trang tài liệu này.
- Theo nghĩa hẹp: Kinh doanh khách sạn chỉ đảm bảo việc phục vụ nhu cầu ngủ nghỉ của khách.
Sự phát triển của nền kinh tế đã làm xuất hiện những nhà kinh doanh khách sạn có khả năng về tài chính lớn mạnh, tính đa dạng hóa và cạnh tranh trong các sản phẩm du lịch, khách sạn ngày càng cao. Từ đó, người ta cố gắng đáp ứng những nhu cầu cao hơn của khách du lịch như giải trí, chăm sóc sắc đẹp, nhu cầu tiện ích và bắt đầu khai thác các đối tượng phục vụ khác như các cuộc gặp gỡ, hội họp, hội nghị… Lúc đó, khái niệm kinh doanh khách sạn không chỉ là hoạt động kinh doanh lưu trú cho khách mà còn là khâu trung gian phân phối các sản phẩm dịch vụ của những ngành kinh tế khác như công nghiệp, nông nghiệp, tài chính- ngân hàng.
Theo giáo trình “Quản Trị Kinh Doanh Khách Sạn” của trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, NXB Lao Động – Xã Hội, đồng chủ biên của TS. Nguyễn Văn Mạnh và Th.s. Hoàng Thị Lan Hương, thì: “Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách nhằm đáp ứng các nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi và vui chơi giải trí của họ tại các điểm du lịch nhằm mục đích thu lợi nhuận”. [5]
Về cơ bản, các dịch vụ trong khách sạn có thể chia làm 2 loại chính:
- Dịch vụ cơ bản: Đây là các dịch vụ được cung cấp nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của con người bao gồm dịch vụ chính là dịch vụ lưu trú và dịch vụ ăn uống.
- Dịch vụ bổ sung: Đây là các dịch vụ đi kèm của khách sạn vì du khách không chỉ dừng lại ở việc muốn thỏa mãn nhu cầu ăn ở, mà họ còn muốn được vui chơi, giải trí, mua sắm để thoát ly cuộc sống bận rộn ngày thường. Do đó, các dịch vụ bổ sung ra đời nhằm tối đa hóa sự hài lòng của du khách như: Giặt ủi, báo thức, xe đưa đón, quầy lưu niệm, trông giữ trẻ, gửi và nhận hộ thư, bưu phẩm, phòng tập thể thao, hồ bơi, casino, internet, spa, phòng xông hơi, karaoke,…
Giữa dịch vụ bổ sung và dịch vụ cơ bản có một mối quan hệ mật thiết và gắn bó với nhau, bổ sung cho nhau. Dịch vụ cơ bản hầu hết ở các khách sạn là giống nhau, nếu khách sạn nào cũng chỉ đến ngủ và ăn thì rất khó để dữ chân khách hàng, dễ gây nhàm chán đối với khách, dễ bị bắt chước. Vì vậy, để có thể thu hút được nhiều khách, tăng khả năng cạnh tranh thì các khách sạn cần tạo ra các dịch vụ bổ sung mang tính khác biệt và tiện nghi cao cho du khách. Chính chất lượng phục vụ cùng các dịch vụ bổ sung là yếu tố gây ấn tượng cho du khách và tạo ra nguồn khách thường xuyên cho khách sạn.
1.1.2. Đặc điểm kinh doanh khách sạn
1.1.2.1. Hoạt động kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch:
Tài nguyên du lịch chính là yếu tố thúc đẩy, thôi thúc con người đi du lịch. Như vậy, nơi nào có tài nguyên du lịch thì nơi đó sẽ có khách du lịch và ngược lại, nơi nào không có tài nguyên du lịch thì nơi đó không thể có khách du lịch. Trong khi đối tượng khách hàng quan trọng nhất của khách sạn là khách du lịch.
Do đó, kinh doanh khách sạn sẽ thành công ở những nơi có tài nguyên du lịch và nó lại càng thành công hơn khi mà tài nguyên du lịch ở đó lại có giá trị và sức hấp dẫn cao. Kinh doanh khách sạn chịu ảnh hưởng lớn của tài nguyên du lịch.
Ngoài ra, khi đầu tư vào kinh doanh khách sạn đòi hỏi nhà đầu tư phải nghiên cứu kỹ các thông số của tài nguyên du lịch cũng như nhóm khách hàng mục tiêu và khách hàng tiềm năng bị hấp dẫn, thu hút tới điểm du lịch, để từ đó xác định các chỉ số kỹ thuật của một công trình khách sạn khi đầu tư xây dựng và thiết kế.
Bởi vì, khả năng tiếp nhận của tài nguyên du lịch ở điểm du lịch sẽ quyết định đến quy mô của khách sạn tại điểm du lịch đó. Đồng thời, giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch quyết định đến thứ hạng của khách sạn. Và khi các điều kiện khách quan tác động tới giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch thay đổi đòi hỏi có sự điều chỉnh về cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn cho phù hợp.
Kinh doanh khách sạn không chỉ phụ thuộc vào tài nguyên du lịch của điểm đến mà nó còn có tác động trở lại đối với tài nguyên du lịch. Vì, đặc điểm về kiến trúc, quy hoạch và đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn tại điểm du lịch có ảnh hưởng tới việc làm tăng hoặc giảm giá trị của tài nguyên du lịch tại các trung tâm du lịch. [13]
1.1.2.2. Hoạt động kinh doanh khách sạn cần lượng vốn ban đầu lớn:
Lý do nào đòi hỏi kinh doanh khách sạn phải có vốn đầu tư lớn? Đó chính là yêu cầu về tính chất lượng cao của sản phẩm khách sạn, nó đòi hỏi các thành phần của cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn cũng có chất lượng cao. Khách sạn luôn mong muốn mang lại cho khách sự thoải mái nhất nên các trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn phải có chất lượng cao để đạt được mục tiêu của khách sạn.
Nhưng, các khách sạn khác nhau thì chất lượng các thành phần của cơ sở vật chất kỹ thuật của các khách sạn cũng khác nhau. Nghĩa là, chất lượng của các cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn sẽ tăng lên cùng với sự tăng lên của thứ hạng khách sạn. Sự sang trọng của các trang thiết bị được lắp đặt bên trong khách sạn chính là nguyên nhân đẩy chi phí đầu tư ban đầu của công trình khách sạn lên cao.
Ngoài ra, đặc điểm này còn xuất phát từ một số nguyên nhân khác: chi phí ban đầu cho cơ sở hạ tầng của khách sạn cao, chi phí đất đai cho một công trình khách sạn rất lớn. [13]
1.1.2.3. Hoạt động kinh doanh khách sạn sử dụng lượng lớn lao động:
Sản phẩm khách sạn chủ yếu là dịch vụ hay mang tính chất phục vụ và sự phục vụ này không thể cơ giới hóa được mà chỉ được thực hiện bởi những nhân viên phục vụ trong khách sạn. Mặt khác, lao động trong khách sạn lại được chuyên môn hóa cao, thời gian lao động lại phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng của khách, mỗi ngày thường kéo dài 24/24 giờ.
Do vậy, khách sạn phải sử dụng một số lượng lớn lao động phục vụ trực tiếp. Với đặc điểm này, các nhà quản lý của khách sạn luôn phải đối mặt với các vấn đề khó khăn về chi phí lao động cao, khó mà cắt giảm chi phí này mà không làm ảnh hưởng xấu tới chất lượng dịch vụ của khách sạn.
Ngoài ra, nó còn gây khó khăn cả trong công tác tuyển mộ, lựa chọn và phân công bố trí nguồn nhân lực của mình. Trong điều kiện kinh doanh khách sạn theo mùa vụ thì việc giảm chi phí lao động một cách hợp lý là một thách thức đối với các nhà quản lý của khách sạn. [13]
1.1.2.4. Hoạt động kinh doanh khách sạn mang tính thời vụ:
Cũng như các ngành kinh doanh khác thì kinh doanh khách sạn cũng chịu sự chi phối của một số quy luật: quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế – xã hội, quy luật tâm lý của con người.
Chẳng hạn, kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên với những biến động lặp đi lặp lại của thời tiết khí hậu trong năm. Nó luôn tạo ra những thay đổi theo những quy luật trong giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên đối với khách du lịch. Từ đó, nó gây ra sự biến động theo mùa của lượng cầu du lịch đến các điểm du lịch.
Do đó tạo ra sự thay đổi theo mùa trong kinh doanh của khách sạn, đặc biệt là các khách sạn nghỉ dưỡng ở các điểm du lịch ở vùng biển và vùng núi. Dù chịu sự chi phối của bất kỳ quy luật nào đi nữa thì điều đó cũng đã gây ra những tác động tiêu cực hay tích cực đối với kinh doanh khách sạn.
Vấn đề đặt ra cho các khách sạn là phải nghiên cứu các quy luật và tác động của chúng đến khách sạn. Để từ đó, khách sạn chủ động đưa ra các giải pháp hữu hiệu để khắc phục những tác động bất lợi của chúng và phát huy những tác động có lợi nhằm phát triển hoạt kinh doanh của mình. [13]
1.1.3. Phân loại khách sạn
1.1.3.1. Theo quy mô khách sạn
Phân loại khách sạn theo quy mô là dựa vào số lượng buồng khách được xây dựng tại khách sạn để phân loại. Có các loại quy mô khách sạn sau:
- Khách sạn nhỏ: 1 đến 50 buồng
- Khách sạn vừa: 51 đến 149 buồng.
- Khách sạn lớn: trên 150 buồng. [6]
1.1.3.2. Theo vị trí khách sạn
Muốn đầu tư xây dựng và thu hút lượng lớn khách hàng, kinh doanh tốt khách sạn thì nhà đầu tư nào cũng đều phải xác định khách hàng mục tiêu, mục đích đi du lịch, tài nguyên thiên nhiên xung quanh khu vực khách sạn,… Việc phân loại khách sạn theo vị trí là để đáp ứng mục đích chuyến đi khác nhau của khách du lịch.
Bao gồm các loại khách sạn sau: [6]
Khách sạn thương mại (commercial hotel)
Là dịch vụ kinh doanh khách sạn nguyên thủy và phổ biến nhất hiện nay. Khách sạn thường được xây dựng tập trung ở các trung tâm thành phố lớn hoặc gần các khu trung tâm thương mại, đối tượng chính là khách thương nhân, khách đi công tác và khách du lịch. Thời gian lưu trú ngắn hạn. Ngoài dịch vụ ăn uống và lưu trú cho khách ở, khách sạn này còn cung cấp các dịch vụ cho khách ngoài như khách hội họp, đám cưới, hội nghị.
Khách sạn sân bay (airport hotel)
Khách sạn sân bay là loại khách sạn được xây dựng ở gần hoặc bên trong sân bay để phục vụ khách phi hành đoàn, khách nối chuyến quốc tế hoặc nội địa, khách chờ visa,...Thời gian lưu trú ngắn. Ví dụ như khách sạn sân bay Tân Sơn Nhất...
Điểm nổi bậc của khách sạn sân bay là khả năng cách âm, chống tiếng ồn tuyệt đối nhằm khủ đi tiếng ồn từ động cơ máy bay để không ảnh hưởng đến khách lưu trú.
Khách sạn bình dân (Hostel/Inn)
Không nằm trong trung tâm thành phố, nằm gần các bến xe, nhà ga... Với các tiện nghi tối thiểu. Đối tượng là khách bình dân, túi tiền vừa phải.
Khách sạn sòng bạc (Casino hotel)
Thường nằm ở các thành phố lớn. Chủ yếu cung cấp các dịch vụ và nhu cầu chơi, giải trí, cờ bạc... Thường được xây dựng lộng lẫy, các trang thiết bị cao cấp. Ví dụ như các khách sạn ở Ma Cao, Las Vegas,...
Đối tượng khách có nhu cầu giải trí cờ bạc các loại. Thời gian lưu trú ngắn.
Khách sạn nghỉ dưỡng (resort hotel)
Thường được xây dựng theo phong cách biệt thự đơn lập và yên tĩnh ở các vùng cao nguyên, ven biển, hải đảo, vịnh, thung lũng với diện tích rộng, cảnh quan thiên nhiên đẹp, khí hậu trong lành. Đối tượng khách có nhu cầu nghỉ dưỡng, nghỉ bệnh... Lưu trú dài hạn.
Là quốc gia với hơn 3000 km đường bờ biển, với hàng chục vịnh và hàng nghìn đảo lớn nhỏ, Việt Nam trở thành thiên đường nghỉ dưỡng biển với các resort trải dài tại các địa danh nổi tiếng: Đà Nẵng, Phan Thiết, Mũi Né, Nha Trang, Vũng Tàu...
Khách sạn căn hộ (suite hotel/apartment)
Nằm trong các thành phố lớn, có các loại phòng với diện tích lớn, đầy đủ tiện nghi như một căn hộ với các phòng chức năng: phòng ăn, phòng khách, phòng ngủ, phòng bếp. Dịch vụ đầy đủ như một khách sạn: dọn phòng, giặt là, ăn uống,…
Đối tượng lưu trú là khách đi du lịch theo dạng gia đình, khách thương gia, khách công vụ, các chuyên gia đi công tác trung và dài hạn.
Nhà nghỉ ven xa lộ (Motel)
Thường có nhiều ở nước ngoài, thường nằm dọc trên các đường cao tốc.
Đối tượng là khách hàng đi du lịch bằng xe môtô, xe hơi, khách có thể đậu xe trước cửa phòng mình. Chủ yếu là có chỗ ở qua đêm, ngắn hạn.
1.1.3.3. Theo mức cung cấp dịch vụ:
Mức độ phục vụ là thước đo về quyền lợi mà khách sạn mang lại cho khách du lịch. Mỗi khách hàng có một mức chi trả riêng, tùy theo phân khúc khách hàng mà các khách sạn có mức giá và mức độ cung cấp dịch vụ khác nhau. Ngoài ra, các khách sạn có quy mô và loại hình khách sạn khác nhau thì mức độ phục vụ cũng khác nhau. Theo tiêu chí này,
khách sạn được phân làm bốn loại: Khách sạn sang trọng, khách sạn với dịch vụ đầy đủ, khách sạn cung cấp số lượng dịch vụ hạn chế, khách sạn thứ hạng thấp.
- Khách sạn sang trọng: Là khách sạn có quy mô lớn, được trang bị những tiện nghi đắt tiền, sang trọng, được trang hoàng đẹp. Cung cấp dịch vụ cao nhất về dịch vụ bổ sung đặc biệt là các dịch vụ bổ sung tại phòng, dịch vụ giải trí ngoài trời, dịch vụ thẩm mĩ, phòng họp…Khách sạn này có các khu sử dụng chung rất rộng, bãi đổ lớn và bán sản phẩm của mình với mức giá bán cao nhất trong vùng
- Khách sạn với đầy đủ dịch vụ: Thị trường khách của các khách sạn này là đoạn thị trường có khả năng thanh toán tương đối cao. Ngoài ra, các khách sạn phải có bãi đỗ xe rộng, cung cấp các dịch vụ ăn uống tại phòng, có nhà hàng và cung cấp một số dịch vụ bổ sung ngoài trời hạn chế.
- Khách sạn cung cấp số lượng hạn chế dịch vụ: Đối tượng khách là những người có khả năng thanh toán tiền trung bình trên thị trường. Những khách sạn thường chỉ cung cấp một số lượng rất hạn chế về dịch vụ, trong đó những vụ bắt buộc phải có ở đây là: dịch vụ ăn uống, một số dịch vụ bổ sung như giặt là và một số dịch vụ bổ sung khác, không nhất thiết phải có phòng họp và các dịch vụ giải trí ngoài trời.
- Khách sạn thứ hạng thấp: Những khách sạn này nhất thiết phải có dịch vụ ăn uống, nhưng phải có một số dịch vụ bổ sung đơn giản đi kèm các dịch vụ chính như dịch vụ đánh thức khách vào buổi sáng, dịch vụ giặt là, dịch vụ cung cấp thông tin. [6]
1.1.3.4. Theo giá bán sản phẩm lưu trú:
Tiêu chí này được xây dựng dựa trên kết quả khảo sát tất cả các khách sạn trong nước, nghiên cứu ghi lại các mức giá buồng trung bình của chúng rồi tạo nên một thước đo mà giới hạn trên của thước đo là mức giá cao nhất và giới hạn là mức giá buồng thấp nhất của các khách sạn trong quốc gia đó. Thước đo này được chia làm 100 phần bằng nhau với dơn vị tính bằng tiền (USD hoặc VND). Theo đó khách sạn được chia làm 5 loại: