phân biệt rõ ràng giữa người bán và người mua, do người bán mặt hàng A lại là người mua mặt hàng B đồng thời điểm
Việc phát minh ra tiền (và sau này là tín dụng, tiền giấy và tiền ảo (tức không phải tiền tồn tại dưới hình thức được in hay được đúc ra) như là phương tiện trao đổi đã đơn giản hóa đáng kể hoạt động thương mại và thúc đẩy hoạt động này, nhưng bên cạnh đó nó cũng phát sinh ra nhiều vấn đề mà hoạt động thương mại thông qua hình thức hàng đổi hàng không có. Vấn đề này được xem xét cụ thể hơn trong bài Tiền. Hoạt động thương mại hiện đại nói chung thông qua cơ chế thỏa thuận trên cơ sở của phương tiện thanh toán, chẳng hạn như tiền. Kết quả của nó là việc mua và việc bán tách rời nhau.
Thương mại tồn tại vì nhiều lý do. Nguyên nhân cơ bản của nó là sự chuyên môn hóa và phân chia lao động, trong đó các nhóm người nhất định nào đó chỉ tập trung vào việc sản xuất để cung ứng các hàng hóa hay dịch vụ thuộc về một lĩnh vực nào đó để đổi lại hàng hóa hay dịch vụ của các nhóm người khác. Thương mại cũng tồn tại giữa các khu vực là do sự khác biệt giữa các khu vực này đem lại lợi thế so sánh hay lợi thế tuyệt đối trong quá trình sản xuất ra các hàng hóa hay dịch vụ có tính thương mại hoặc do sự khác biệt trong các kích thước của khu vực (dân số chẳng hạn) cho phép thu được lợi thế trong sản xuất hàng loạt. Vì thế, thương mại theo các giá cả thị trường đem lại lợi ích cho cả hai khu vực.
3.2. Vai trò của dịch vụ thương mại
Lĩnh vực thương mại và dịch vụ nói chung bao gồm những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh và mở cửa về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể xác định và tiến hành những bước đi và giải pháp phù hợp. Nhằm một mặt góp phần cùng thành phố và cả nước thực hiện thành công tiến trình mở cửa, mặt khác cùng góp phần đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hoạt động của thương mại và dịch vụ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Có thể bạn quan tâm!
- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược marketing tại công ty du lịch vận tải và thương mại ECOVICO - 1
- Marketing Trong Lĩnh Vực Du Lịch Vận Tải Và Thương Mại
- Thực Trạng Hoạt Động Kinh Doanh Của Công Ty Du Lịch Vận Tải Và Thương Mại
- Phân Tích Môi Trương Bên Ngoài Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Kinh Doanh Lữ
Xem toàn bộ 72 trang tài liệu này.
- Thương mại và dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Thật vậy, dịch vụ - thương mại chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Buôn bán quốc tế, đặc biệt là buôn bán hàng hóa sẽ lưu hành như thế nào nếu không có dịch vụ vận tải? Dịch vụ thanh toán? Chính sự ra đời và phát triển của dịch vụ vận tải
như vận tải đường bộ, đường không, đường biển đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa lý, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa từ Quốc gia này đến quốc gia khác, từ khu vực này đến khu vực địa lý khác... Các dịch vụ ngân hàng cũng cho phép khâu thanh toán được diễn ra một cách có hiệu quả, giúp cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu đạt được mục đích trong quan hệ buôn bán. Các dịch vụ viễn thông, thông tin cũng có vai trò hỗ trợ cho các hoạt động thương mại trong việc kích cầu, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Các dịch vụ như dịch vụ đại lý, buôn bán, bán lẻ giữ vai trò trung gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng; đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn thời gian hàng hóa lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư tái sản xuất. Như vậy, dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt động thương mại hàng hóa.
- Thương mại và dịch vụ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Thông qua hoạt động dịch vụ - thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh mua bán được sản phẩm, góp phần tạo ra quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và như vậy các dịch vụ sẽ lưu thông, các dịch vụ được thông suốt. Có thể nói, nếu không có dịch vụ - thương mại thì sản xuất hàng hóa khó có thể phát triển được.
- Thương mại và dịch vụ đã trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất là bởi vì nhu cầu về dịch vụ xuất phát từ chính các nhà sản xuất khi họ nhận thấy rằng, để có thể tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng như dịch vụ khoa học, kỹ thuật công nghệ.
- Sự tăng trưởng của các ngành thương mại và dịch vụ còn là động lực cho sự phát triển kinh tế, cũng như có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội. Nền kinh tế càng phát triển thì thương mại và dịch vụ càng phong phú, đa dạng. Hiện nay, sự phát triển thương mại và dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Người ta thấy rằng, trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao thì tỷ trọng của dịch vụ - thương mại trong cơ cấu ngành kinh tế nước đó càng lớn. Dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa, tạo điều kiện cho lĩnh vực sản xuất khác phát triển.
- Thông qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, khả năng tiêu dùng, nâng cao mức tiêu thụ và hưởng thụ của cá nhân và doanh nghiệp cũng tăng lên góp
phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường lao động và phân công lao động trong
xã hội.
- Trong xu thế hội nhập quốc tế, thị trường trong nước sẽ liên hệ chặt chẽ với thị trường nước ngoài thong qua hoạt động ngoại thương, điều này nếu dịch vụ và thương mại phát triển mạnh mẽ, phong phú, đa dạng chắc chắn sẽ mở rộng được thị trường thu hút các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường. Chính vì điều này, dịch vụ
- thương mại thực sự là cầu nối gắn kết giữa thị trường trong nước với thị trường ngoài nước, phù họp với xu thế hội nhập và mở cửa ở nước ta hiện nay.
- Dịch vụ thương mại luôn thể hiện sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường mua bán hàng hóa dịch vụ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh là quan hệ bình đẳng về mặt lý thuyết, đó là thuận mua vừa bán. Cho nên trong hoạt động dịch vụ - thương mại đòi hỏi các chủ thể kinh doanh luôn phải năng động, sáng tạo, kể cả nghệ thuật để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh hàgn hóa dịch vụ trên thị trường, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng và điều này sẽ làm nền tảng vững chắc giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
- Dịch vụ thương mại luôn thể hiện sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường mua bán hàng hóa dịch vụ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh là quan hệ bình đẳng về mặt lý thuyết, đó là thuận mua vừa bán. Cho nên trong hoạt động dịch vụ - thương mại đòi hỏi các chủ thể kinh doanh luôn phải năng động, sáng tạo, kể cả nghệ thuật để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa dịch vụ trên thị trường, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng và điều này sẽ làm nền tẳng vững chắc giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
- Trong quá trình xây dựng đất nước, dịch vụ - thương mại góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất nước, đặc biệt là khi Việt Nam đã bình thường hóa về thương mại với Hoa Kỳ và gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới WTO. Nghị quyết Đại hội X của đảng ta đã khẳng định:... Về kinh tế, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, có tình cạnh tranh cao và gồm những đối tác có năng lực cạnh tranh rất mạnh... những thành quả này vừa tạo ra các tiền đề và cơ sở kinh tế, vừa cung cấp những bài học cần thiết để chúng ta thực hiện bước hội nhập mới có tầm quan trọng đặc biệt - hội nhập ở cấp độ đa phương - toàn cầu trong Tổ chức Thương mại thế giới.
4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ MARKETING
4.1.Khái niệm về marketing
“Marketing là một dạng hoạt động của con người nhằm thỏa mãn những nhu
cầu mong muốn của họ thông qua trao đổi”( Philip Kotler)
“Marketing là làm thế nào đưa sản phẩm, dịch vụ đúng, đến đúng khách hàng, đúng địa điểm, đúng thời gian, đúng giá cả trên kênh phân phối đúng và hoạt động hiểm trợ đúng”
“Marketing là sự hoàn thiện hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm vào một luồng sản phẩm, dịch vụ để đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ”.
Định nghĩa Marketing theo tổ chức Hiệp Hội Marketing Mỹ:
Định nghĩa năm 2005
“Marketing is an organizational function and a set of processes for creating, communicating and delivering value to customers and for managing customer relationships in ways that benefit the organization and its stakeholders."
Định Nghĩa năm 2007
“Marketing is the activity, conducted by organizations and individuals, that operates through a set of institutions and processes for creating, communicating, delivering, and exchanging market offerings that have value for customers, clients, marketers, and society at large.”
Có nhiều định nghĩa khác nhau về marketing và quan niệm về marketing cũng có nhiều thay đổi theo thời gian. Hiện nay marketing được coi là một công cụ hữu ích đối với những nhà sản xuất, kinh doanh. Trước đây marketing được hiểu một cách đơn giản là giai đoạn sau khi sản xuất ra sản phẩm cho tới khi sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Thông qua các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, marketing thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm. Cho đến nay quan điểm này đã có nhiều thay đổi bằng việc bổ xung thêm những chức năng nhiệm vụ của hoạt động marketing. Marketing bắt đầu từ quá trình tìm hiểu thị trường, khái quát những nhu cầu của thị trường dưới dạng thị hiếu của khách hàng và tìm cách đưa ra những sản phầm nhằm đạt tới mục tiêu thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Sau khi phân đoạn thị trường và xác định thị trường mục tiêu hoạt động marketing xúc tiến hoàn thiện những sản phẩm sẵn có cho phù hợp với thị trường, một mặt nghiên cứu đưa ra những sản phẩm mới dựa trên những nhu cầu đã được nghiên cứu. Sau khi sản phẩm ra đời hoạt động marketing bước vào giai đoạn đưa sản phẩm ra thị trường. Trong xu thế hiện nay khi sự cạnh tranh các mặt hàng cùng chủng loại và các mặt hàng thay thế trở nên khốc liệt thì marketing chính là công cụ hữu ích để sản phẩm
thu hút được sự chú ý và mong muốn tiêu dùng của khách hàng. Trong các giai đoạn này hoạt động marketing được thực hiện dưới hình thức quảng cáo, chào hàng, bán hàng trực tiếp, quan hệ công chúng, khuyến mãi…vv. Thông qua các đại lý bán buôn và bán lẻ, qua kênh phân phối dựa trên các đại lý cung cấp nguồn khách hàng thường xuyên cho doanh nghiệp. Đây được coi là hoạt động quan trọng và nổi bất nhất của marketing. Tuy nhiên marketing là một quá trình khép kín. Sau khi sản phẩm tới tay người tiêu dùng ngoài chính sách hậu mãi và bảo hành nhằm duy trì quan hệ tốt với doanh nghiệp hoạt động markeing còn có nhiệm vụ tiếp nhận những phản hồi từ khách hàng. Từ đây vòng tròn lại quay về điểm ban đầu và quá trình cứ vậy tiếp diễn theo chu trình hoạt động của doanh nghiệp.
Marketing là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo cao. Không chỉ sáng tạo ra những phương thức nhằm thu hút được chú ý của khách hàng mà còn là sáng tạo ra những nhu cầu của khách hàng, bằng cách tìm ra, khơi gợi lên những nhu cầu của khách hàng và thỏa mãn những nhu cầu ấy. Hoạt động marketing ngày càng thể hiện tư thế chủ động của nhà cung cấp trong hoạt động kinh doanh.
Lịch sử ngành marketing cũng được phát triển dựa trên quá trình trao đổi sản phẩm tại một thị trường tự cung tự cấp cho tới thị trường chung. Marketing hiện đại là kết quả của một nghiên cứu kỹ lưỡng và lâu dài dựa trên những quan điểm đúng đắn và khách quan. Việc áp dụng các quan điểm khác nhau vào hoạt động marketing tại mỗi doanh nghiệp phải phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể. Và mỗi doanh nghiệp thường áp dụng những chiến lược marketing riêng cho mình. Do vậy việc vận hành bộ máy marketing tại mỗi doanh nghiệp cũng mang những đặc điểm khác nhau. Lý thuyết, thực tiễn và con người là những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động marketing.
4.2. Vai trò của marketing
Trong thập niên qua, nền kinh tế thế giới đã thay đổi một cách mạnh mẽ dưới sức ép của toàn cầu hóa, sự phát triển vũ bão của công nghệ và sự mở cửa của các thị trường mới. Toàn cầu hóa là một cơ hội phát triển kinh doanh mà các tập đoàn lớn trên thế giới không thể bỏ qua, bởi họ có lợi thế về nguồn lực và là người đi trước họ có lợi thế thông qua việc đặt ra luật chơi. Sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đã xóa đi mọi rào cản về không gian và địa lý. Khách hàng giờ đây có nhiều quyền hơn trước đây. Nhờ vào công nghệ họ có thể tiếp cận thông tin về sản phẩm tốt hơn, từ đó họ có nhiều sự lựa chọn hơn. Công nghệ cũng đã giúp rút ngăn thời gian mà một ý tưởng cần có để thể trở thành một sản phẩm sẵn sàng phục vụ người tiêu dùng. Trước đây trong một năm các hãng xe hơi chỉ có thể đưa ra một kiểu mới. Ngày nay họ có thể giới thiệu ra thị trường thậm chí 5,6 kiểu
xe mới trong một năm. Mặt khác, công nghệ cũng đã đặt ra một thách thức cho các doanh nghiệp: tuổi thọ của sản phẩm trên thị trường bị rút ngắn. Nếu trước đây người ta sử dụng một chiếc điện thoại di động trong thời gian 2-3 năm là chuyện bình thường, thì đối với giới trẻ ngày nay, nếu sau một năm mà bạn không thay đổi điện thoại di động thì đó là chuyện lạ.Do thị trường Châu Âu, Mỹ đã phát triển đến giai đoạn bão hòa và ổn định, các tập đoàn lớn cần phải tìm kiếm thị trường mới để duy trì tốc độ phát triển của mình. Việt Nam nằm trong số bốn nước được các tập đòan lớn quan tâm:Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam.
Từ chỗ sân ai nấy đá thành sân chung mà mọi người ai muốn đá cũng vào đá được, toàn cầu hóa đã thay đổi bản chất của họat động kinh doanh, từ chỗ tập trung sản xuất ra sản phẩm tốt nhất, rẻ nhất có thể được, doanh nghiệp đã phải dịch chuyển sự chú tâm của mình ra thị trường. Đơn giản là vì họ muốn khách hàng tin dùng và mua sản phẩm của họ hơn là của đối thủ cạnh tranh. Và để làm được việc đó doanh nghiệp cần phải hiểu nhu cầu của khách hàng tốt hơn, họ cần truyền thông tốt hơn về sản phẩm của họ, và họ cần xây dựng quan hệ gắn bó lâu dài giữa thương hiệu với nhóm đối tượng khách hàng mục tiêu. Chính vì những lý do trên, marketing ngày càng trở nên một chức năng quan trọng trong các doanh nghiệp. Nhưng marketing không chỉ là một chức năng trong hoạt động kinh doanh, nó là một triết lý dẫn dắt toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp trong việc phát hiện ra, đáp ứng và làm thoả mãn cho nhu cầu của khách hàng.
Doanh nghiệp cần phải biết làm thế nào để xác định và phân khúc thị trường, xây dựng giải pháp hấp dẫn để chào cho khách hàng, và xây dựng thương hiệu với định vị mạnh. Họ phải biết làm thế nào để làm giá cho giải pháp của mình một cách hấp dẫn và hợp lý, và làm thế nào để chọn và quản trị kênh phân phối để đưa sản phẩm của mình đến người tiêu dùng một cách có hiệu quả. Họ cần phải biết làm thế nào để quảng cáo và giới thiệu sản phẩm của mình, để khách hàng biết và mua. Không chỉ thế, họ cần phải biết áp dụng chiến lược thị trường và phương pháp quản trị phù hợp với thực tế thị trường đầy kỹ thuật mới trong xu hướng toàn cầu hoá.
5. Chiến lược Marketing Mô hình Marketing mix Product
Price Place Promotion
Marketing- mix hay còn gọi là marketing 4P dựa trên 4 yếu tố sau.
MÔ HÌNH MARKETING MIX
Product
Price
MARKETING- MIX
Place
Promotion
Product: Sản phẩm Price: Giá cả Place: Phân phối
Promotion: Chiêu thị
- Product: sản phẩm chính là cái gốc của mọi hoạt động trong doanh nghiệp. Sản phẩm được đặt lên hàng đầu và là yếu tố quan trọng nhất. Muốn bán được sản phẩm trước hết sản phẩm đó phải có giá trị. Marketing mix chú trọng đến sản phẩm một cách toàn diện nhất. Từ chất lượng sản phẩm về khía cạnh vật chất đến mẫu mã và bao bì. Tính năng hay hiệu quả sử dụng nhấn mạnh tính tiện ích của sản phẩm. Thêm vào đó là tính phù hợp với thị hiếu và tâm lý người tiêu dùng. Một sản phẩm được quảng cáo và phân phối tốt tới đâu mà không thật sự tốt chỉ mang lại sự thất vọng và tẩy chay của người tiêu dùng. Kết quả của quá trình này không chỉ phụ thuộc và nhà sản xuất mà còn có sự tham gia của bộ phận marketing trong việc nghiên cứu thị trường, tìm hiểu tâm lý và nhu cầu của người tiêu dùng. Sự ra đời của một sản phẩm là sự kết hợp của việc nắm bắt thị trường và vật chất hóa những ý tưởng phù hợp. Tuy nhiên đối với một ngành có tính đặc thù như kinh doanh hoạt động lưu trú thì việc “sản xuất” ra sản phẩm không hoàn toàn tuân theo những nguyên tắc như trên. Bởi sản phẩm của ngành lưu trú chính là một sản phẩm vô hình và là kết quả tổng hợp của rất nhiều yếu tố.
- Price: Sản phẩm của hoạt động kinh doanh lưu trú không phải là mặt hàng sản xuất hàng loạt với cùng một mẫu mã và chất lượng. Việc định giá cũng vì thế mà gặp khó khăn trong việc đánh giá tương quan giữa chất lượng của các sản phẩm mà chủ yếu là các dịch vụ. Việc định giá sản phẩm tương tự như các phương pháp định giá đối với các sản phẩm thông thường khác. Đưa ra giá dựa trên giá thành luôn là phương án đúng đắn. Việc đưa ra mức giá cao hay thấp, biến động theo mùa vụ là một trong những ý đồ của nhà kinh doanh. Dù theo phương pháp nào giá cả vẫn phải đảm bảo lợi nhuận được bảo đảm. Tuy nhiên giá cả không chỉ thể hiện giá trị của sản phẩm mà còn thể hiện đẳng cấp của người tiêu dùng. Đối với những khách sạn lớn, ngoài tiện nghi và các dịch vụ được cam kết là tối ưu trong giá cả
còn bao gồm cả giá cho thương hiệu hay chính là đẳng cấp của người sử dụng các
dịch vụ tại cơ sở lưu trú này.
- Place: Sau khi sản phẩm đáp ứng được những yêu cầu trên, marketing có nhiệm vụ đưa sản phẩm ra ngoài thị trường thông qua kênh phân phối của mình. Đối với các sản phẩm hàng hóa thông thường khác kênh phân phối chủ yếu dựa trên hệ thống đại lý bán buôn và bán lẻ. Riêng với hoạt động lưu trú ngoài mạng lưới bán buôn và bán lẻ doanh nghiệp còn xây dựng cho mình một hệ thống bán hàng dựa trên các doanh nghiệp có nguồn khách hàng kiểu mắt xích. Các hãng hàng không, giao thông vận tải là nơi cung cấp khách hàng thường xuyên cho ngành lưu trú. Mặt khác quan hệ này cũng theo chiều ngược lại. Khách sạn là nơi có thể chi phối những ngành khác dựa trên việc đáp ứng những nhu cầu khác nhau của khách hàng. Cơ sở lưu trú vừa có thể là đối tác của hoạt động lữ hành vừa có thể là khách hàng của họ. Viêc phân phối các sản phẩm tạo thành một mạng lưới có sự tác động đa chiều.
- Promotion: Chiêu thị hay còn gọi là các chiêu thức bán hàng. Thực chất khái niệm này dùng để chỉ các phương pháp nhằm tiêu thụ sản phẩm. Đối với các sản phẩm hàng tiêu dùng thì quảng cáo là phương pháp thu được hiệu quả nhiều nhất. Riêng đối với sản phẩm kinh doanh lưu trú với đặc tính đã phân tích ở trên thì những phương pháp quảng cáo thông thường không phát huy được tác dụng tối đa. Không một nhà kinh doanh lưu trú nào khẳng định được chất lượng dịch vụ sẽ đúng hoàn toàn như những gì họ cam kết. Và chính người tiêu dùng là người hiểu hơn bất kì ai tâm lý đó. Bởi vì sự thỏa mãn hay mức độ hài lòng chỉ được xác lập khi chính họ tiêu dùng sản phẩm chứ không phải qua một quảng cáo nào. Những quảng cáo phần lớn chỉ khơi gợi cho người sử dụng dịch vụ mong muốn tiêu dùng và thử trải qua dịch vụ tại đây. Và bản thân dịch vụ tiêu dùng với mỗi khách hàng và mỗi thời điểm chỉ mang tính tương quan. Bởi vậy đối với ngành kinh doanh hoạt động lưu trú thì kênh thông tin của họ có một đặc trưng đó là cung cấp cho những người có ý định tiêu dùng sản phẩm hơn là cho tất cả mọi người. Điều này thể hiện rõ nhất qua các phân phối sản phẩm, cách chào hàng và kênh thông tin qua các đại lý du lịch. Trong khi ngành lưu trú không khai thác thế mạnh của quảng cáo truyền hình thì những chuyên san ngành du lịch trở thành một nơi lý tưởng để giới thiệu về sản phẩm của mình. Vẫn là một kênh thông hẹp, chưa được nhiều người biết tới.
Sự bùng nổ của internet không chỉ mang lại cho ngành kinh doanh lưu trú một mảnh đất đầy tiềm năng cho quảng cáo mà còn mang lại một hệ thống bán hàng trực tuyến hiện đại và tiện lợi. Những thông tin về vị trí, giá cả và dịch vụ được khai