Tuy nhiên, viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là trợ giúp hữu nghị mà còn là công cụ để kiếm lời về kinh tế lẫn chính trị cho các nước tài trợ. Trong nhiều trường hợp, ODA thường gắn với những điều kiện ràng buộc về kinh tế, xã hội, thậm chí cả về chính trị. Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ:
Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
II. PHÂN LOẠI VỐN ODA
Có thể bạn quan tâm!
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA trong ngành lâm nghiệp ở Việt Nam - 1
- Góp Phần Cải Cách Và Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế
- Chuẩn Bị, Thẩm Định Và Phê Duyệt Nội Dung Chương Trình Dự Án Oda
- Những Thành Tựu Đạt Được Trong Sử Dụng Vốn Oda
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
1. Theo tính chất
ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA không phải hoàn lại cho nhà tài trợ.
ODA cho vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): Là hình thức cho vay với lãi suất và điều kiện ưu đãi sao cho “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt không dưới 25% của tổng trị giá khoản vay. Bên nước ngoài thường qui định cụ thể các điều kiện cho vay ưu đãi.
ODA hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc dưới các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng tính chung lại, “yếu tố không hoàn lại” đạt không dưới 25% của tổng giá trị các khoản đó.
2. Theo mục đích
Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản vay ưu đãi.
Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hoặc nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực… Loại viện trợ này chủ yếu là không hoàn lại.
3. Theo điều kiện
ODA không ràng buộc: Việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bời nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
ODA có ràng buộc
Bởi nguồn sử dụng: Việc sắm hàng hóa, trang thiết bị hay dịch vụ bằng nguồn ODA chỉ giới hạn trong một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (Đối với viện trợ song phương), hoặc công ty của các nước thành viên (Với viện trợ đa phương).
Bởi mục đích sử dụng: Chỉ được sử dụng ở một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể.
ODA có thể ràng buộc một phần: Một phần chi ở nước viện trợ, phần còn lại chi ở bất cứ nơi nào.
III. PHÂN BIỆT ODA VÀ ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP
1. Giống nhau:
Đều là hình thức đầu tư quốc tế: Là sự di chuyển các loại tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý….từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Ngoài ra còn có một số đặc điểm như:
Chủ sở hữu đầu tư là người nước ngoài.
Các yếu tố đầu tư di chuyển ra khỏi biên giới (liên quan đến khía cạnh chính sách, pháp luật, hải quan và cước phí vận chuyển).
Vốn đầu tư được tính bằng ngoại tệ.
Được thực hiện tại nước nhận đầu tư (nhận viện trợ)
Phải qua quá trình, thủ tục thẩm định, xét duyệt đầu tư…
2. Khác nhau:
Đầu tư gián tiếp (hay đầu tư tài chính): Chủ đầu tư bỏ tài sản (chủ yếu dưới dạng vốn) để mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu… nhằm hưởng lợi tức mà không trực tiếp quản lí tài sản của mình. Thời gian đầu tư thừờng là ngắn hạn.
ODA (Viện trợ phát triển chính thức): là hình thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. #iều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%. ODA luôn đi kèm các điều kiện ưu đãi (Vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài, lãi suất hấp dẫn…), mang lại lợi ích cho cả 2 bên.
IV. CÁC HÌNH THỨC VIỆN TRỢ VỐN ODA
1. Hỗ trợ dự án
“Dự án” là một tập hợp các hoạt động có liên quan đến nhau nhằm đạt được một hoặc một số mục tiêu xác định, được thực hiện trong một thời hạn nhất định, dựa trên những nguồn lực xác định. Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án hỗ trợ kỹ thuật.
“Dự án đầu tư” là dự án tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
“Dự án hỗ trợ kỹ thuật” là dự án tập trung chủ yếu vào việc cung cấp các yếu tố kỹ thuật phần mềm, bao gồm các dự án phát triển năng lực thể chế, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ hoặc chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm và
các dự án cung cấp các yếu tố đầu vào về kỹ thuật để chuẩn bị thực hiện chương trình, dự án đầu tư.
2. Hỗ trợ cán cân thanh toán
Thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ, hàng hoá, dây chuyền sản xuất chuyển vào qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách. Điều này xảy ra khi hàng hoá nhập vào nhờ hình thức này được bán trên thị trường trong nước và số thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của chính phủ.
3. Hỗ trợ chương trình
“Chương trình” là một tập hợp các hoạt động, các dự án có liên quan đến nhau và có thể liên quan đến nhiều ngành kinh tế, kỹ thuật, nhiều vùng lãnh thổ, nhiều chủ thể khác nhau, được thực hiện thông qua phương pháp tiếp cận liên ngành, có thời gian thực hiện tương đối dài hoặc theo nhiều giai đoạn và nguồn lực thể hiện có thể được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, theo nhiều phương thức khác nhau.
V. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VÀ LĨNH VỰC ƯU TIÊN SỬ DỤNG VỐN ODA
1. Nguyên tắc cơ bản
ODA là nguồn vốn quan trọng của Ngân sách nhà nước, được sử dụng để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội ưu tiên.
Chính phủ thống nhất quản lí Nhà nước về ODA trên cơ sở phân cấp, tăng cường trách nhiệm và bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các cơ quan quản lí ngành và địa phương.
Quá trình thu hút, quản lí và sử dụng ODA phải tuân thủ theo những yêu cầu dưới
đây:
Chính phủ nắm vai trò quản lí và chỉ đạo, phát huy cao độ tính chủ động, trách nhiệm của cơ quan chủ quản,các cơ quan, đơn vị thực hiện;
Bảo đảm tính tổng hợp, thống nhất và đồng bộ trong công tác quản lí ODA;
Bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các bên có liên quan, trong đó có các đối tượng thụ hưởng;
Bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch về quyền hạn và trách nhiệm của các bên có liên quan;
Bảo đảm hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ.
Quá trình thu hút, quản lí và sử dụng nguồn vốn ODA phải tuân theo các quy định của Luật ngân sách Nhà nước, quy chế quản lí và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, Quy chế quản lí vay và trả nợ nước ngoài và các chế độ quản lí hiện hành khác của Nhà nước. Trường hợp điều ước quốc tế về ODA đã được ký kết giữa Nhà nước hoặc chính phủ với nhà tài trợ có quy định khác thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó.
2. Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA
Vốn ODA không hoàn lại được ưu tiên sử dụng cho những chương trình, dự án/chương trình thuộc các lĩnh vực:
Xoá đói giảm nghèo, trước hết tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; Y tế, dân số và phát triển;
Giáo dục, phát triển nguồn nhân lực;
Các vấn đề xã hội (tạo việc làm, cấp nước sinh hoạt, phòng chống dịch bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội);
Bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nghiên cứu khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai;
Nghiên cứu, chuẩn bị các chương trình, dự án phát triển (qui hoạch, điều tra cơ bản);
Cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của các cơ quan quản lí Nhà nước ở Trung ương, địa phương và phát triển các thể chế;
Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng chính phủ.
Trong quá trình thực hiện, danh mục và thứ tự các lĩnh vực ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA sẽ được chính phủ điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
VI. VAI TRÒ CỦA VỐN ODA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
Một trong những nội dung quan trọng đối với những nước nghèo là phải huy động và khơi dậy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Trong đó các nguồn lực trong nước có vai trò và ý nghĩa quyết định, các nguồn lực bên ngoài có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những nguồn lực bên ngoài cần được quan tâm và khai thác. Nếu kết hợp với các nguồn lực khác một cách hợp lí thì sẽ có thể mang lại những hiệu quả thiết thực đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội.
1. Là nguồn ngoại lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế-xã hội
Vốn vay và tài trợ quốc tế là hình thức hợp tác phát triển giữa các nước phát triển, các tổ chức quốc tế với các nước đang phát triển hoặc chậm phát triển. Một bộ phận của vốn vay và tài trợ quốc tế được dành cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội như đầu tư cho xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, nâng cấp mạng lưới y tế, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phát triển giáo dục.… Nguồn vốn này được sử dụng cho những dự án quan trọng nhưng ít thu hút được đầu tư trong nước.
ODA là một bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt của các nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế. Ngày nay, hầu hết các nước đều thừa nhận rằng ODA là một nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Những lợi ích mà nguồn vốn này mang lại không chỉ đem lại hiệu quả nhất định đối với nước vay và tiếp nhận tài trợ mà còn có ích cho các tổ chức và các nước cho vay và tài trợ quốc tế. Trong lĩnh vực phát triển Cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, vai trò của ODA thể hiện ở những lợi ích mà nó đem lại như:
Thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua đầu tư phát triển các công trình thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng; trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy GDP tăng trưởng và tạo ra công ăn việc làm.