Những Thành Tựu Đạt Được Trong Sử Dụng Vốn Oda


2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện Nghị định nói trên của Chính phủ. Công tác quản lý nhà nước về ODA ở các cấp về cơ bản đã tập trung vào một đầu mối, ở Trung ương là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ở các Bộ là các Vụ Kế hoạch và Đầu tư hoặc Vụ Hợp tác quốc tế, ở các tỉnh là các Sở Kế hoạch và Đầu tư. Tuy nhiên, ở một số địa phương công tác quản lý ODA vẫn còn phân tán, ảnh hưởng tới công tác phối hợp và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này.

Nhìn chung, sự ổn định chính trị, xã hội; công cuộc đổi mới được tiếp tục cả chiều sâu lẫn bề rộng, nền kinh tế có tăng trưởng liên tục, năm sau cao hơn năm trước; công tác xoá đói giảm nghèo đạt được những kết quả rõ rệt; nhiều vấn đề phát triển xã hội đạt được những tiến bộ khích lệ, chủ động hội nhập quốc tế được triển khai tích cực đã tạo ra một môi trường rất thuận lợi để vận động ODA hỗ trợ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm 2001 - 2005.

1.1. Những thành tựu đạt được trong sử dụng vốn ODA


Thứ nhất, nguồn vốn ODA đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển, chiếm khoảng từ 22% đến 25% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả phần vốn ODA cho vay lại từ ngân sách nhà nước).

Thứ hai, những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đa góp phần cải thiện cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.

Thông qua các dự án ODA, hệ thống đường bộ được phát triển đáng kể từ quốc lộ 1A, 10, 18, 9, đường xuyên á (đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài), các cầu lớn (Mỹ Thuận, Cần Thơ, Thanh Trì, Bính...); nâng cấp và mở rộng các cảng biển như Cái Lân (Hải Phòng), Sài Gòn, Tiên Sa (Đà Nẵng), xây dựng cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, phát triển giao thông nông thôn ở hầu hết các tỉnh...


Nguồn vốn ODA đã đầu tư phát triển ngành điện bao gồm phát triển nguồn điện (các dự án Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2-1, Ô Môn, Phả Lại 2, Hàm Thuận - Đa My, Đại Ninh, Đa Nhim) và phát triển hệ thống đường dây 500 kV Plâyku - Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố.

Thứ ba, vốn ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo. Số liệu các cuộc điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 58% vào năm 1983 xuống còn 37% năm 1998; 28,9% năm 2002 và ước dưới 10% năm 2004. Kết quả này cho thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) mà nước ta cam kết với thế giới. Những kết quả này có sự góp phần quan trọng của vốn ODA. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xoá đói giảm nghèo, trong đó nguồn vốn ODA đã giúp nông dân nghèo tiếp cận nguồn vốn vay để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học...

Thứ tư, nguồn vốn ODA đã hỗ trợ phát triển các tỉnh và thành phố, nhất là hỗ trợ xoá đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng nông thông miền núi; hầu hết các tỉnh và thành phố có các dự án hệ thống cấp nước sinh hoạt, trường học, bệnh viện hệ thống thuỷ lợi, một số dự án thoát nước, phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ.

Thứ năm, vốn ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tác động tích cực đến việc cải thiện chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như các dự án ODA hỗ trợ cải cách giáo dục tiểu học, trung học và đại học, tự án tạo nghề...


Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc gia, ngành có ý nghĩa sâu rộng như chương trình dân số và phát triển, chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em, chương trình nước sạch nông thôn, chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chương trình xoá đói giảm nghèo... Nhờ vậy, thứ hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên Hợp quốc đều được cải thiện hàng năm.

Thứ sáu, vốn ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường năng lực con người... Thông qua các dự án ODA, hàng ngàn cán bộ Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý hiệnđại được chuyển giao.

Thứ bẩy, quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ... nghiên cứu áp dụng các mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành,...), hài hoà quá trình chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm, tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA.

Nước ta được lựa chọn là nước điển hình về tiến hành hài hoà quy trình thủ tục ODA, tuân thủ hệ thống quản lý quốc gia về nâng cao hiệ quả viện trợ.

1.2. Những tồn tại cần khắc phục


Bên cạnh những mặt được của ODA hỗ trợ quá trình phát triển, việc sử dụng ODA trong thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực này:


Thứ nhất, chậm trễ trong quá trình giải ngân, làm giảm hiệu quả sử dụng ODA và làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ của ta. Nguyên nhân chủ yếu là quy trình và thủ tục trong nước cũng như của các nhà tài trợ còn phức tạp, lại có sự khác biệt giữa các nhà tài trợ và phía Việt Nam; chậm trễ trong việc di dân tái định cư và giải phóng mặt bằng; công tác đấu thầu; năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các Ban quản lý còn hạn chế và bất cập.


Bảng 1: Tình hình cam kết và giải ngân ODA giai đoạn 1993-2003


Đơn vị tính: Tỷ USD


Năm

Vốn cam kết

Vốn giải ngân

Tỷ lệ giải ngân/cam kết


(%)

1993

1,81

0,413

22,82

1994

1,94

0,725

37,37

1995

2,26

0,737

32,61

1996

2,43

0,9

37,04

1997

2,4

1,0

41,67

1998

2,2

1,242

56,46

1999

2,21

1,35

61,08

2000

2,4

1,65

68,75

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.


2001

2,4

1,5

62,5

2002

2,5

1,55

62,0

2003

2,54

1,58

62,2

(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư -2004)


Thứ hai, thiếu quy hoạch vận động và sử dụng ODA; các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA còn thiếu tính đồng bộ, nhất quán, minh bạch, nhất là trong các vấn đề liên quan tới quản lý đầu tư và xây dựng; thực thi các văn bản pháp luật về quản lý ODA chưa nghiêm.

Thứ ba, công tác theo dõi và đánh giá dự án buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ quản ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý được các dự án của mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thực hiện thiếu nghiêm túc.

Thứ tư, năng lực cán bộ ở các cấp còn nhiều bất cập và thiếu tính chuyên nghiệp trong quản lý và sử dụng ODA.

Những yếu kém nêu trên còn có nguyên nhân sâu xa là cơ quan thụ hưởng ODA chưa phát huy đầy đủ vai trò làm chủ trong việc khai thác nguồn lực này phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù của ODA. Điều này thể hiện trong nhiều khâu như: Công tác quy hoạch, kế hoạch và điều phối ODA, chuẩn bị và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA, công tác huấn luyện và đào tạo về ODA chưa được chú ý đúng mức, cũng như trong việc theo dõi và đánh giá dự án.

2. Tình hình vận động và sử dụng vốn ODA trong ngành Lâm nghiệp


2.1. Đặc trưng của các chương trình, dự án trong ngành Lâm nghiệp


Các dự án hoạt động rất đa dạng từ trồng rừng đến khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ rừng, phát triển thể chế chính sách, chuyển giao công nghệ, phát triển cơ sở hạ tâng nông thôn, các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm…


Biểu đồ 4: Tỷ trọng vốn ODA cho Lâm nghiệp/NN&PTNT (1993-2005)


Nguồn ISG – Vụ HTQT 2006 Hầu hết các chương trình dự án triển khai trong 1


(Nguồn: ISG – Vụ HTQT-2006)


Hầu hết các chương trình, dự án triển khai trong ngành Lâm nghiệp được thực hiện trên diện rộng, lại ở những địa điểm miền núi, vùng sâu, vùng xa, những vùng mà tại đó điều kiện kinh tế-xã hội còn gặp rất nhiều khó khăn, với phần lớn là nông dân, đồng bào dân tộc ít người nên trình độ dân trí còn thấp. Nhiều hoạt động dự án chủ yếu do cơ sở (huyện, xã) trực tiếp quản lí và thực hiện, đối tượng hưởng lợi và tham gia dự án tới cấp hộ nông dân. Do đó tổ chức thực hiện dự án phức tạp; cơ chế quản lí tài chính, giải ngân, cơ chế tín dụng gặp khó khăn. Bên cạnh đó các điều kiện tự nhiên rất phức tạp, thông thường là những vùng rừng núi rộng lớn, đất xấu, dốc điều kiện canh tác không thuận lợi, đất đai bị phân tán và không có quy hoạch tập trung. Chính vì thế rất khó cho công tác thực thi và bảo vệ.

Đối tượng cây trồng thường có chu kỳ kinh doanh dài (thường từ 5 đến 7 năm), tuỳ thuộc từng loại cây gỗ, thậm chí có thể kéo dài hơn đến vài chục năm, do đó phải chờ đợi thời gian thu hoạch mới xác định và đánh giá hiệu quả chính xác.

Đối với các dự án trồng rừng, các giống cây thường đòi hỏi được gieo trồng theo mùa vụ, nghĩa là có sự phụ thuộc chặt chẽ giữa khả năng sinh trưởng của cây trồng


theo điều kiện thời tiết và thời gian trong năm. Ngoài ra nó cũng phụ thuộc mạnh mẽ vào chất đất và các điều kiện địa lý khác của khu vực thực thi.

Thông thường hiệu quả các dự án trồng rừng phụ thuộc lớn vào điều kiện thiên nhiên. Tính rủi ro thường cao hơn so với các dự án thuộc các lĩnh vực khác do khả năng cháy rừng có thể xảy ra nếu gặp điều kiện khí hậu khô hạn, nhất là đối với khu vực rừng ở miền Trung, Tây Nguyên… Ngoài ra năng suất rừng trồng có thể giảm do sâu bệnh phá hoại.

Thông thường những dự án thực thi trong ngành Lâm nghiệp thường có tính xã hội, góp phần bảo vệ môi trường hơn là mang tính kinh doanh thương mại. Chính vì thế khi xét đến các chương trình, dự án Lâm nghiệp cần có sự tính toán kỹ các yếu tố nêu trên để bảo đảm tính khả thi và mang lại hiệu quả cao, nhất là đối với các dự án trồng rừng.

2.2. Một số dự án sử dụng vốn ODA tiêu biểu trong ngành Lâm nghiệp


Như đã nói, các dự án ODA trong ngành Lâm nghiệp rất đa dạng từ trồng rừng đến khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ rừng, phát triển thể chế chính sách, chuyển giao công nghệ, phát triển cơ sở hạ tâng nông thôn, các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm… Dưới đây là một số dự án ODA do Ban quản lí các dự án Lâm nghiệp quản lí.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/05/2022