Các Biện Pháp Hỗ Trợ Vốn Cho Sản Xuất Hàng Xuất Hàng Xuất Khẩu Cho Dnnvv

lãi suất vay vốn lưu động đối với các doanh nghiệp thực hiện hợp đồng xuất khẩu, hỗ trợ 50% lãi suất vay vốn đầu tư của các dự án dở dang năm 2008 và các dự án triển khai trong năm 2009 của ngành... đã góp phần giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoàn thành mục tiêu xuất khẩu đã đề ra.

Giảm thuế xuất khẩu đồng nghĩa với việc doanh nghiệp giảm được chi phí xuất khẩu, có điều kiện hạ giá bán, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Ngoài ra, theo thông tư số 05/2009/TT-BTC ngày 13/01/2009, Bộ Tài chính còn hướng dẫn theo hướng giãn thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu của một số ngành như đóng tàu, cơ khí, chế biến nông, lâm, thuỷ sản…; đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời gian hoàn thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, kể cả khi doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng; giao doanh nghiệp tự đăng ký và chịu trách nhiệm về định mức sử dụng nguyên liệu, vật tư sản xuất hàng xuất khẩu gồm cả phần phế liệu, phế phẩm nằm trong định mức không phải nộp thuế nhập khẩu.

Tuy nhiên, Bộ Tài chính và Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã đưa ra Biểu khung thuế xuất khẩu mới. Một số loại tài nguyên, khoáng sản bị điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu để hạn chế xuất khẩu, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước, giảm thuế suất thuế nhập khẩu đối với nhóm hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí.


Hộp 1: Thay đổi khung thuế xuất khẩu từ ngày 01/01/2009

* Kể từ ngày 01/01/2009, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu sẽ bị nâng thuế theo hướng:

- Nhóm hàng đang chịu thuế xuất khẩu (9 nhóm) sẽ tăng thuế ở mức cao hơn;

- Nhóm không phải chịu thuế (5 nhóm) được đưa vào diện chịu thuế với khung thuế suất rất rộng:

+ 0-30% áp dụng đối với khoáng sản;

+ 0-40% áp dụng đối với xăng dầu, khí dầu mỏ...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

+ 0-50% áp dụng đối với các mặt hàng phân bón.

- Nhóm hàng xuất khẩu còn lại (vật tư, nguyên liệu bán thành phẩm) hiện chịu thuế xuất khẩu 0% sẽ phải chịu khung thuế suất 0-20%

Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 7

- Nhóm những hàng hóa còn lại: áp dụng mức 0 - 10%.

* Việc nâng trần thuế suất và mở rộng khung thuế xuất khẩu, điều hành hoạt động xuất khẩu, điều tiết thị trường trong nước kể từ 2009 sẽ có sự linh hoạt hơn.

- Mặt hàng gạo có khung thuế suất tăng mạnh nhất từ 0- 3% lên đến 0-40%, tăng mức trần hơn 13 lần.

- Mặt hàng ngô tăng từ 0-3% lên 0- 10%.

- Mặt hàng chè có mức thuế suất hiện hành 0-3% được nâng lên 0-5%.

- Hạt điều tăng từ 0-4% lên 0-10%.

- Cao su tự nhiên tăng từ 0-5% lên 5-20%.

- Mặt hàng than các loại được tăng khung thuế suất từ 1-20% lên đến 5-45%.

- Dầu thô tăng từ 2-20% lên đến 5- 50%,

Đây cũng là một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đóng gó

- Quặng kim loại khung thuế suất hiện hành từ 0-20% và 5-20% được kiến nghị điều chỉnh lên 5-40%. p

đáng kể trong việc hạn chế tình trạng nhập siêu, đảm bảo cán cân thanh toán. Tuy nhiên, nâng mức trần thuế như vậy nhằm hạn chế “chảy máu” tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo an ninh lương thực, góp phần điều tiết thị trường trong nước. Ví dụ, thời gian qua, việc nhập – xuất thép, phân bón có nhiều diễn biến bất thường. Trước đó, Nhà nước thực hiện chủ trương bình ổn giá cả một số mặt hàng thiết yếu, nhờ vậy mà giá các mặt hàng sắt thép thấp hơn thị trường thế giới. Tuy nhiên, nhà sản xuất lại xuất khẩu phôi thép ra bên ngoài, dễ dẫn đến tình trạng thiếu nguồn cung để sản xuất. Vì thế, nâng khung thuế lên mức 1%-40% để điều chỉnh linh hoạt khi cần thiết.

Nhìn chung, những quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện nay đã cải tiến rất nhiều theo hướng khuyến khích xuất khẩu, nâng cao lợi thế quốc gia cũng như hướng dẫn tiêu dùng trong nước nhưng không thể phủ nhận những hạn

chế còn tồn tại như còn rườm rà, phức tạp. Trong thời gian tới, chúng ta vẫn tiếp tục quan điểm giảm tối đa diện chịu thuế xuất khẩu, chỉ đánh thuế xuất khẩu vào một số ít mặt hàng mà chúng ta hạn chế xuất khẩu để bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia.

2.3.1.2. Thuế Giá trị gia tăng

Thuế suất thuế GTGT có 3 mức 0% đối với hàng hóa xuất khẩu, vận tải quốc tế, 5% với những hàng hóa dịch vụ đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp và hàng hóa thiết yếu của nhân dân, 10% là thuế suất phổ thông. Vai trò khuyến khích xuất khẩu của thuế GTGT được thể hiện rõ nét qua cơ chế áp dụng thuế suất 0% đối với các loại hàng hoá dịch vụ xuất khẩu; thuế GTGT đầu vào của doanh nghiệp đã nộp mua hàng, nguyên vật liệu để sản xuất hàng hoá, dịch vụ xuất sẽ được nhà nước hoàn thuế toàn bộ. Như vậy, hàng xuất khẩu của Việt Nam có được ưu thế đáng kể về giá từ sự hỗ trợ và ưu đãi này của Chính phủ. Việc bổ sung vận tải quốc tế vào đối tượng được áp dụng thuế suất 0% đã góp phần khuyến khích phát triển hoạt động vận tải quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế, tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của cả nước.

Với mức thuế suất 5% đối với sản phẩm nông nghiệp cũng rất hợp lý. Điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và những năm tới cho thấy vẫn chưa đủ điều kiện để thu thuế đối với sản phẩm nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp thuộc diện không chịu thuế GTGT nên thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp không được khấu trừ mà tính vào chi phí. Nếu chuyển toàn bộ hàng hoá, dịch vụ sang mức thuế suất 10% thì sẽ làm tăng giá thành và giảm sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường. Mặt khác, theo cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì nhiều sản phẩm nông nghiệp được tiếp tục duy trì chính sách bảo hộ trong thời hạn 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO. Vì vậy, để tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp phát triển trong những năm đầu hội nhập thì những hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp tiếp tục duy trì ở mức thuế suất 5% là cần thiết.

Theo Thông tư số 04/2009/TT-BTC ngày 13/01/2009, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện theo hướng hoàn 90% số thuế đầu vào cho doanh nghiệp xuất khẩu

trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ và hoàn 10% số thuế đầu vào còn lại trong vòng 4 ngày khi doanh nghiệp nộp bổ sung chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Quy định này đã rút ngắn 1/2 thời gian hoàn thuế cho doanh nghiệp nói chung so với quy định trước đây. Đối với doanh nghiệp được hoàn thuế trước - kiểm tra sau sẽ được thực hiện trong 8 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ (trước đây là 16 ngày); trường hợp doanh nghiệp kiểm tra trước - hoàn sau thực hiện trong 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ (trước đây là 60 ngày).

Ngoài ra, trước tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Quyết định số 16/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 được ban hành quy định một số giải pháp về thuế nhằm thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tháo gỡ khó khăn đối với doanh nghiệp và cụ thể là Thông tư 13/2009/TT-BTC hướng dẫn thực hiện giảm thuế GTGT đối với một số hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp kinh doanh gặp khó khăn. Theo Thông tư 13, sẽ thực hiện giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT từ ngày 01/02/2009 đến hết 31/12/2009 đối với một số hàng hóa, dịch vụ thuộc 19 nhóm áp dụng thuế suất 10% quy định tại điểm 3 mục II phần B Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 bao gồm: than đá, hóa chất cơ bản, ô tô các loại và một số linh kiện ô tô, sản phẩm luyện, cán, kéo kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý (trừ vàng nhập khẩu); máy xử lý dữ liệu tự động; vận tải hàng hóa (trừ vận tải quốc tế); kinh doanh khách sạn, dịch vụ du lịch lữ hành trọn gói; in (trừ in tiền)…

Với thuế GTGT, phần lớn các ngành hàng trên trước đây có thuế suất là 5%, nhưng từ 01/01/2009 theo Luật Thuế GTGT mới, thuế suất tăng lên 10%. Tuy nhiên, với Quyết định 16, được giảm 50% thuế GTGT phải nộp, các ngành hàng này vẫn hưởng thuế là 5%. Riêng các ngành in, du lịch, khách sạn, thuế GTGT từ 10% nay giảm xuống còn 5%.

Đây là những mặt hàng hết sức quan trọng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là cho xuất khẩu, một phần nào đó gánh vác được những khó khăn khách quan mà các doanh nghiệp đang phải đối mặt trong tình cảnh hiện nay. Việc giảm 50% thuế GTGT sẽ một mặt giảm áp lực về tài chính cho các doanh nghiệp, mặt khác giảm giá hàng bán, từ đó nâng cao lượng tiêu thụ, đồng thời đem lại lợi ích

cho người tiêu dùng, kích thích một số ngành có thế mạnh xuất khẩu nhưng lại gặp khó khăn như gỗ, thép, lúa gạo, vận tải, du lịch….

2.3.1.3. Thuế tiêu thụ đặc biệt

Ưu đãi thuế TTĐB đối với hoạt động xuất khẩu thể hiện ở quy định hàng hóa là nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu được hoàn số thuế TTĐB đã nộp tương ứng với số nguyên liệu đã dùng để sản xuất hàng hóa thực tế xuất khẩu. Thông thường, thuế suất thuế TTĐB khá cao nhằm mục đích hạn chế nhập khẩu hoặc tiêu dùng, vì thế mà đội giá thành của sản phẩm lên rất nhiều. Chính vì thế ưu đãi này góp phần giảm chi phí và tạo lợi thế cạnh tranh giá cả cho hàng xuất khẩu Việt Nam.

Ưu đãi thuế TTĐB đối với khu kinh tế cửa khẩu là một ví dụ tiêu biểu cho chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho hoạt động xuất khẩu. Theo Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02/03/2009 về việc ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với khu kinh tế cửa khẩu. Theo đó, Hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được sản xuất, tiêu thụ trong khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa khẩu hoặc nhập khẩu từ nước ngoài và từ nội địa Việt Nam vào khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa khẩu không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt; riêng ô tô dưới 24 chỗ ngồi phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định.

Hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa khẩu xuất khẩu ra nước ngoài không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa khẩu đưa vào tiêu thụ tại các khu chức năng khác trong khu kinh tế.

Qua đây, có thể thấy được sự ủng hộ và hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước đến hoạt động xuất khẩu. Khu kinh tế cửa khẩu không chỉ có ý nghĩa về mặt lãnh thổ, về chính trị mà cùng với xu thế thương mại hóa toàn cầu thì đây chính là cửa ngõ giao thương của đất nước. Nhận thức được lợi thế đó, những chính sách tài chính ưu đãi đặc biệt mà Nhà nước ban hành và áp dụng cho khu vực này là một minh chứng tiêu biểu cho nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu của đất nước. Có thể dẫn ra ở đây trường hợp của Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, hàng hóa, dịch vụ sản xuất, tiêu thụ trong khu kinh tế và nhập khẩu từ nước ngoài vào khu kinh tế không phải chịu thuế GTGT, thuế

TTĐB; hàng hóa, dịch vụ từ nội địa Việt Nam và nhập từ nước ngoài vào khu kinh tế được miễn thuế xuất khẩu, nhập khẩu… Với những chính sách trên, dù mới được thành lập hơn một năm nhưng đã có hàng chục doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư và tìm hiểu cơ hội đầu tư, mở rộng sản xuất và xuất khẩu của cả vùng.

2.3.1.4. Thuế thu nhập doanh nghiệp

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành năm 1997 thay thế Luật Thuế lợi tức áp dụng thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp trong cả nước đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Pháp lệnh Thuế Thu nhập doanh nghiệp sửa đổi năm 2001 đã đảm bảo công bằng hơn cho các đối tượng nộp thuế.

Truớc thời điểm kinh tế suy giảm, doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn, thách thức. ưu đãi, miễn giảm, giãn hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là một trong những biện pháp hỗ trợ tích cực, phần nào khắc phục những tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Theo Nghị quyết 30/2008/NQ-CP của Chính phủ ngày 11/12/2008 và Thông tư 03/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 13/01/2009, DNNVV sẽ được giảm 30% số thuế thu nhập của quý IV/2008 và của cả năm 2009. Mức hỗ trợ này được Bộ Tài chính công bố nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn.

Hộp 2 : Quy định giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp quý IV/2008 và cả năm 2009 cho DNNVV

- Ngày hiệu lực: 29/03/2009

- Đối tượng được hưởng ưu đãi là DNNVV có:

+ Giấy đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đầu tư có hiệu lực trước ngày 01/01/2009

+ Vốn điều lệ không quá 10 tỷ đồng. Trường hợp doanh nghiệp thành lập mới kể từ ngày 01/01/2009 thì vốn điều lệ ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đầu tư lần đầu không quá 10 tỷ đồng.

+ Có số lao động sử dụng bình quân trong quý IV/2008 không quá 300 người, không kể lao động hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng. Trường hợp doanh nghiệp thành lập mới kể từ ngày 01/10/2008 thì số lao động được trả lương, trả công của tháng đầu tiên (đủ 30 ngày) có doanh thu không quá 300 người.

- Nội dung miễn giảm: số thuế thu nhập doanh nghiệp được giảm của quý IV/2008 bằng 30% số thuế thu nhập phải nộp của quý IV/2008. Còn số thuế thu nhập doanh nghiệp được giảm của năm 2009 bằng 30% số thuế thu nhập phải nộp của năm.

- Các kê khai: Khi kê khai số thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp của quý IV/2008 và hàng quý năm 2009, doanh nghiệp tự xác định số thuế được tạm giảm bằng 30% số thuế tạm nộp của quý. Khi quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 và năm 2009 doanh nghiệp tự xác định số thuế thu nhập được giảm.

Trường hợp doanh nghiệp đang trong thời gian được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp thì số thuế được giảm 30% tính trên số thuế còn lại sau khi đã trừ đi số thuế được ưu đãi theo quy định.


Nguồn: Thông tư 03/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 13/01/2009

Theo tính toán của Bộ Tài chính, tổng số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp mà DNNVV được giảm, giãn nộp theo chương trình kích cầu của Chính phủ đã lên đến

10.000 tỷ đồng. Trong đó, khoản giảm 30% số thuế thu nhập DNNVV phải nộp trong quý IV của năm 2008 và cả năm 2009, tương đương hơn 3.100 tỷ đồng. DNNVV cũng được giãn thời gian nộp thuế đối với 70% tổng thuế thu nhập doanh nghiệp. Thời gian giãn nộp thuế là 09 tháng, tổng số tiền thuế được giãn nộp là trên 6.800 tỷ đồng. Để doanh nghiệp được hưởng lợi ngay từ chính sách giảm, giãn thuế

này, Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ quan thuế các cấp giải quyết nhanh hồ sơ khai thuế, hoàn thuế, trả lời sớm vướng mắc phát sinh của doanh nghiệp.

Nhờ có những ưu đãi tích cực của Chính phủ về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và giãn hạn nộp thuế, các DNNVV có điều kiện tích lũy vốn, tập trung đối phó với tình trạng kinh tế khó khăn và phát triển sản xuất. Tuy chỉ là một biện pháp tạm thời nhưng nó cũng góp phần tích cực vào việc giảm bớt gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu trong điều kiện khó khăn như hiện nay.

2.3.2. Các biện pháp hỗ trợ vốn cho sản xuất hàng xuất hàng xuất khẩu cho DNNVV

2.3.2.1. Các biện pháp đầu tư

* Quỹ đầu tư mạo hiểm

Các quỹ đầu tư mạo hiểm bắt đầu chú ý tới Việt Nam vào năm 1995 nhưng làn sóng đầu tư mạo hiểm chỉ thực sự mạnh sau năm 2003. Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 30 quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, tổng vốn rót vào nội địa khoảng 2 tỷ USD. Có thể kể lên những cái tên như IDG, Vinacapital, Mekong Capital, Dragon Capital... Các quỹ Với hoạt động chủ yếu ở Việt Nam có thể phân loại thành, các quỹ đầu tư chủ yếu vào tài sản cá nhân, quỹ tập trung vào công nghệ và đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư bất động sản, quỹ đầu tưu vào cổ phiếu niêm yết, các công ty cổ phần và các khoản đầu tư cơ hội. Những doanh nghiệp trẻ mới thành lập và đang thiếu nguồn lực để phát triển thì quỹ đầu tư mạo hiểm như một biện pháp cứu cánh cần thiết mà rất nhiều lãnh đạo doanh nghiệp hướng tới. Có thể nói, với tỷ lệ 95% các doanh nghiệp ở Việt Nam là DNNVV thì quỹ đầu tư mạo hiểm là một kênh dẫn vốn và là một giải pháp tài chính rất đáng chú ý. Nguyên lý của đầu tư mạo hiểm là chấp nhận rủi ro để thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam, các quỹ đầu tư mạo hiểm chỉ chấp nhận rủi ro rất thấp. Hầu hết những cuộc đầu tư của họ hướng tới các doanh nghiệp đã có những thành công nhất định trên thương trường, có uy tín và có lượng khách hàng lớn. Tất nhiên, với thị trường mới như Việt Nam thì những công ty như vậy không quá nhiều, nhất là khi đa số các DNNVV với những hạn chế về nhiều mặt. Hơn nữa, môi trường đầu tư tại Việt Nam cũng chưa làm an tâm các nhà đầu tư mạo hiểm. "Thị trường đầu tư mạo hiểm Việt Nam thật hấp dẫn, nhưng vẫn chưa đủ lớn để các nhà đầu tư mạnh dạn vì cơ

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 06/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí