Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ - Thực trạng và giải pháp - 2

triển, những ưu tiên, khuyến khích cũng như hạn chế của chính phủ đối với ngành để có những kế hoạch, bước đi, điều chỉnh sao cho phù hợp.

Nếu như 2 yếu tố trên đóng vai trò đánh giá mức độ thuận lợi và những định hướng cho từng ngành thì hệ thống pháp luật lại là yếu tố chính điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp trong ngành. Qua nhiều năm, hàng loạt đạo luật được ban hành ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện là cơ sở để quản lý, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời và giải quyết những mối quan hệ mới phát sinh từ đó tạo môi trường kinh doanh ổn định, công bằng, thuận lợi cho doanh nghiệp. Hiện nay, các điều luật, các quy định, chính sách, văn bản pháp quy của chính phủ và cơ quan quan lý luôn hướng tới việc đảm bảo lợi ích của cả 3 đối tượng: doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã hội. Có thể kể đến một số đạo luật như: luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, luật thương mại, luật đầu tư, luật lao động, luật thuế, luật bảo vệ người tiêu dùng, luật bảo vệ môi trường.

1.3. Môi trường văn hoá xã hội.

Xã hội mà mỗi người lớn lên trong đó đều đã định hình niềm tin cơ bản, chuẩn mực và giá trị nhất định. Vì vậy, xem xét đến yếu tố văn hoá xã hội là xem xét đến những chuẩn mực và giá trị được chấp nhận và tôn trọng trong một xã hội hoặc trong một nền văn hoá cụ thể. Những chuẩn mực, giá trị này được thể hiện qua:

+ Quan niệm về đạo đức, lối sống, thẩm mỹ, nghề nghiệp.

+ Phong tục, tập quán, tín ngưỡng, truyền thống, phong cách sống.

+ Trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội.

Các yếu tố này tác động đến nhu cầu, thị hiếu và nhận thức của người tiêu dùng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chúng còn ảnh hưởng đến hoạt động quản trị và chính sách nhân sự trong doanh nghiệp

Trong số các chuẩn mực và giá trị đó, có những chuẩn mực và giá trị rất bền vững khó thay đổi nhưng có những chuẩn mực và giá trị biến đổi theo thời gian. Bởi vậy, các doanh nghiệp khi đưa ra các sản phẩm, chiến lược hay

kế hoạch marketing cần lưu ý cả đến những giá trị chuẩn mực không thay đổi đó để có được sự phù hợp trong các mối quan hệ và trong việc đáp ứng nhu cầu với khách hàng. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần hết sức quan tâm đến việc theo sát, phát hiện những biến đổi về văn hoá xã hội để có thể dự báo, đáp ứng kịp thời những xu hướng mới trong tiêu dùng. Thị hiếu và trình độ dân trí ngày càng cao là điều kiện kiên quyết buộc các doanh nghiệp đổi mới, cải tiến sản phẩm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.

1.4. Môi trường công nghệ.

Trong môi trường vĩ mô, các yếu tố công nghệ có sự thay đổi nhanh nhất trong những năm qua. Con người đang sống trong một môi trường có công nghệ không ngừng thay đổi. Chính công nghệ là lực lượng quan trọng nhất định hình và thay đổi cuộc sống của con người. Trong kinh doanh, công nghệ đã làm thay đổi nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ, tác động đến chất lượng và giá thành sản phẩm, vòng đời sản phẩm, mở ra nhiều lĩnh vực mới và làm mất đi lĩnh vực khác, đồng thời còn làm thay đổi cách thức quản lý, tổ chức của doanh nghiệp. Những gì mà công nghệ đem lại vì vậy tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức cho doanh nghiệp.

Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ - Thực trạng và giải pháp - 2

+ Về mặt cơ hội, công nghệ mới làm cho năng suất cao hơn, giúp sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sản xuất ra với chất lượng tốt hơn, hoàn thiện hơn, nhiều tính năng hơn từ đó tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Doanh nghiệp ngoài ra có thể thâm nhập, mở rộng hoạt động sang các thị trường sản phẩm dịch vụ mới. Không những vậy, bộ máy của doanh nghiệp sẽ trở nên nhanh, gọn, giảm thiểu tối đa thời gian chi phí trong quá trình tác nghiệp.

+ Về mặt thách thức, công nghệ buộc các doanh nghiệp phải đổi mới thường xuyên để có thể cạnh tranh trong môi trường mà các sản phẩm truyền thống đang lưu hành luôn gặp phải sự đe doạ từ những sản phẩm thay thế. Vì thế, nó làm tăng thêm áp lực rút ngắn thời gian khấu hao công nghệ và vòng đời sản phẩm so với trước.

Các nhà quản lý doanh nghiệp luôn cần theo dõi chặt chẽ sự thay đổi trong công nghệ và cả những quy định liên quan đến công nghệ định áp dụng. Đối với họ, thách thức không chỉ là về mặt kỹ thuật, mà là cả về mặt thương mại, pháp lý tức là phải lựa chọn, phát triển được những phương án vừa túi tiền cho các sản phẩm đó, đồng thời đảm bảo phù hợp với quy định của chính phủ. Tóm lại là họ phải có sự đánh giá chính xác, nắm kỹ những quy định này khi đề xuất, phát triển và tung ra những sản phẩm mới hay sử dụng những công nghệ mới.

1.5. Môi trường tự nhiên.

Kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động sản xuất tăng nhanh kéo theo những vấn đề nảy sinh về môi trường tự nhiên. Ngày nay, môi trường tự nhiên đang dần trở nên xấu đi và việc bảo vệ môi trường tự nhiên đã trở thành vấn đề được đặc biệt quan trọng đặt ra trước các doanh nghiệp và công chúng. Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như: vị trí địa lý, nguồn tài nguyên, khí hậu , đất đai. Tại những nơi có dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, đánh giá mức độ ảnh hưởng của dự án đầu tư đến những yếu tố trên và tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát trở thành điều kiện bắt buộc trong việc cấp phép đầu tư.

Theo giáo sư Philip Kotler [3,112], các doanh nghiệp cần nhạy bén đối với những mối nguy cơ và cơ hội gắn liền với bốn xu hướng sau trong môi trường tự nhiên:

+ Thứ nhất, đó là sự thiếu hụt về mặt nguyên nhiên liệu. Hiện nay, những nguồn tài nguyên trên trái đất có loại vô hạn, loại hữu hạn, có thể tái tạo được hoặc không thể tái tạo được. Đối với những loại tài nguyên hữu hạn và tái tạo được cần khai thác và có chính sách tái tạo một cách hợp lý để vừa có thể đáp ứng đủ nhu cầu xã hội, vừa có đủ lượng tài nguyên mới để tiếp tục khai thác khi nguồn tài nguyên cũ dùng hết. Đối với những nguồn tài nguyên hữu hạn nhưng không tái tạo được, vấn đề nghiêm trọng được đặt ra khi chúng trở nên cạn kiệt. Vì vậy, các công ty buộc phải đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để tạo ra những sản phẩm sử dụng nguồn nguyên nhiên liệu mới thay thế với hiệu suất cao.

+ Thứ hai, chi phí năng lượng ngày càng gia tăng. Vấn đề này diễn ra với nguồn năng lượng thuộc nhóm tài nguyên hữu hạn, không thể tái tạo được

+ Thứ ba, mức độ ô nhiễm môi trường tăng. Trong đó, công nghiệp là hoạt động ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên nhiều nhất.. Vấn đề xử lý môi trường đã tạo ra một thị trường lớn cho các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh các giải pháp kiểm soát ô nhiễm. Đồng thời, nó còn dẫn đến nhu cầu trong việc tạo ra và sử dụng các công nghệ sạch, nguồn năng lượng sạch.

+ Thứ tư, đó là sự thay đổi vai trò của các chính phủ trong việc bảo vệ môi trường. Các chính phủ giờ đây đều coi trọng và kiểm soát chặt chẽ vấn đề môi trường. Tuy nhiên, các chính phủ lại có mức độ quan tâm và nỗ lực khác nhau trong việc bảo vệ môi trường. Điều này được thể hiện qua những chính sách, điều luật, quy định mà họ ban hành.

Chính vì lý do trên, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các chính sách đẩy mạnh phát triển của chính phủ đối với từng ngành cần đáp ứng các yêu cầu sau:

+ Ưu tiên phát triển các hoạt động khai thác tốt điều kiện tự nhiên trên cơ sở duy trì, tái tạo.

+ Tiết kiệm và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, chuyển dần từ tài nguyên không thể tái sinh sang sử dụng vật liệu nhân tạo.

+ Đẩy mạnh việc nghiên cứu và phát triển công nghệ để bảo vệ môi trường, giảm thiểu tối đa tác động gây ô nhiễm.

1.6. Toàn cầu hoá.

Toàn cầu hóa là xu hướng quốc tế hoá trên mọi lĩnh vực của đời sống. Toàn cầu hoá đã, đang và sẽ là một xu hướng tất yếu mà mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi chính phủ phải tính đến. Hoạt động của con người lúc này không còn bị giới hạn bởi biên giới quốc gia và ngày càng trải rộng ra toàn thế giới với một tốc độ ngày càng cao trên tất cả mọi lĩnh vực. Điều đó làm cho nền kinh tế thế giới trở thành một chỉnh thể thống nhất trong đó mỗi quốc

gia là một bộ phận, giữa chúng có sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau cũng như gắn kết hay xung đột về mặt lợi ích.

Quá trình quốc tế hoá diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu hướng khu vực hoá. Trong đó nhất thể hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ và được tăng cường với sự nương tựa, hợp tác với nhau ngày càng nhiều giữa các quốc gia. Xu hưóng khu vực hoá thể hiện ở việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực với các hình thức đa dạng ví dụ như: Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Tổ chức diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội quốc gia Đông Nam Á... Xu hướng quốc tế hoá đặt ra yêu cầu tất yếu là mỗi quốc gia cần phải mở cửa ra thị trường thế giới và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế và khu vực để có được khuôn khổ phù hợp cho sự phát triển. Thông qua những liên kết kinh tế khu vực đó, các quốc gia tiến dần tới việc hạ thấp hoặc xoá bỏ các rào cản thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi, ưu đãi để thúc đẩy phát triển kinh tế và quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Chính điều này đã làm thay đổi và đem lại tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Trước tiên, doanh nghiệp có cơ hội đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa, tiếp cận và mở rộng thị trường nhờ các quy chế ưu đãi cũng như những thoả thuận mà các quốc gia trong cùng một liên kết kinh tế cam kết dành cho nhau thông qua hiệp định được kí kết.

Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có cơ hội học tập, tiếp thu công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý.

Tuy nhiên, thị trường mở cửa và rào cản thương mại giảm đồng thời cũng là thách thức lớn đối với doanh nghiệp vì sức ép cạnh tranh sẽ tăng lên. Thêm vào đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với nhiều yếu tố rủi ro và bất định hơn do môi trường kinh doanh giữa các nước lúc này trở nên liên thông có tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau và cũng bởi sự phụ thuộc về mặt lợi ích trong quan hệ kinh doanh buôn bán. Đặc biệt, doanh nghiệp ở các nước đang phát triển vốn phụ thuộc vào xuất khẩu sẽ còn phải đối mặt với nhiều rào cản kỹ thuật, các vụ kiện pháp lý từ

phía các nước phát triển để nhằm mục đích bảo hộ sản xuất trong nước.

2. Môi trường ngành:

Một ngành kinh doanh là tập hợp các doanh nghiệp cùng cung cấp các sản phẩm dịch vụ có thể thay thế được cho nhau nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng [5,86]. Nếu như môi trường vĩ mô có ảnh hưởng chung tới nhiều ngành kinh doanh khác nhau thì môi trường ngành lại có ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức tới từng doanh nghiệp trong ngành, tới các quyết định của nhà quản lý doanh nghiệp và khả năng thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp [9,92]. Những yếu tố tạo nên môi trường ngành đó là: khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn, sản phẩm thay thế. Ngoài ra, cũng cần lưu ý một điều là các doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực sản phẩm, dịch vụ vẫn có thể có môi trường ngành khác nhau do hoạt động trong các ngách thị trường khác nhau.

Mô hình 5 áp lực cạnh tranh [5,84] được giáo sư M.Porter xây dựng dựa vào 5 yếu tố: khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, sản phẩm thay thế đã đem lại một sự phân tích, đánh giá tổng quát về ảnh hưởng của chúng đến doanh nghiệp.

Một điều hiển nhiên là áp lực của mỗi yếu tố trong số 5 yếu tố trên càng mạnh thì càng hạn chế cho doanh nghiệp trong việc áp đặt giá, khả năng kiếm được lợi nhuận và ngược lại.

Mô hình 1.1. Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của M. Porter.


Nguồn: PGS, TS Lê Văn Tân (2000), Giáo trình “Quản trị chiến lược”, Nhà xuất bản Thống Kê, trang 84.

2.1. Khách hàng.

Các doanh nghiệp tồn tại để đáp ứng nhu cầu của khách hàng hay thị trường tiêu thụ. Họ là người tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp. Khách hàng có thể là cá nhân, tổ chức, chính phủ nhưng nếu xét dưới góc độ quy trình của hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, khách hàng của doanh nghiệp lại bao gồm người tiêu dùng cuối cùng, các nhà phân phối (đại lý, nhà bán buôn, bán lẻ) và các doanh nghiệp khác (nếu yếu tố đầu ra của doanh nghiệp này là yếu tố đầu vào của doanh nghiệp kia).

Trong quan hệ mua bán, khách hàng có thể gây sức ép thông qua khả năng đàm phán đối với doanh nghiệp về mặt giá cả và chất lượng, và một vài yếu tố khác như điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán qua đó làm ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp. Thêm vào đó, thị hiếu cũng như nhu cầu của khách hàng luôn thay đổi. Rõ ràng, khách hàng là yếu tố bất định đối với doanh nghiệp.

Trong một ngành, nếu áp lực từ phía khách hàng cao thì mức độ cạnh tranh tăng lên tạo nguy cơ cho các doanh nghiệp hiện tại và ngược lại. Đánh giá quyền lực đàm phán và khả năng tạo áp lực của khách hàng, giáo sư M.Porter đưa ra các tiêu chí như [5,85]: số lượng khách hàng, tầm quan trọng của khách hàng (thể hiện qua % doanh thu), chi phí chuyển đổi khách hàng. Cụ thể là áp lực của khách hàng tăng lên khi:

+ Ngành cung cấp gồm nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Trong khi đó, số lượng người mua ít và có quy mô lớn. Điều này cho phép người mua chi phối các công ty cung cấp.

+ Khách hàng mua số lượng lớn. Trong hoàn cảnh này, người mua có thể sử dụng như một ưu thế để mặc cả giảm giá. Điều này cũng tương tự khi doanh nghiệp trong ngành phụ thuộc vào một khách hàng quan trọng nào đó bởi số đơn đặt hàng của khách hàng này luôn chiếm tỷ lệ lớn trong % doanh thu của doanh nghiệp.

+ Người mua có thể thay đổi nhà cung cấp cũ với mức chi phí thấp.

+ Đối với khách hàng là doanh nghiệp sản xuất cần mua các yếu tố đầu vào từ doanh nghiệp khác. Áp lực cũng sẽ tăng lên nếu như khách hàng có xu hướng khép kín sản xuất, có thể tự sản xuất gia công các bộ phận, chi tiết, yếu tố đầu vào thay vì mua từ doanh nghiệp khác.

2.2. Nhà cung cấp.

Khi nói đến nhà cung cấp, chúng ta nghĩ ngay đến những doanh nghiệp hay những người chuyên cung ứng các yếu tố đầu vào cho doanh ngiệp như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, vốn, lao động.

Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, yêu cầu đặt ra chính là việc tìm kiếm và đảm bảo cho doanh nghiệp của mình có được nguồn cung cấp đầu vào ổn định với một mức chi phí hợp lý hay giá thấp nhất có thể.

Hoạt động doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng ngay khi những yếu tố đầu vào này mang tính bất trắc- tức là nếu chúng không sẵn có hay bị trì hoãn thì có thể sẽ giảm hiệu quả của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh lúc đó sẽ bị ngưng trệ, kéo dài thời gian so với dự kiến và khiến doanh nghiệp phát sinh thêm chi phí. Qua đó làm giảm khả năng kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp. Tình huống đó luôn là mối đe doạ tiềm ẩn, tạo áp lực cho doanh nghiệp đặc biệt là với những doanh nghiệp bị phụ thuộc. Trên thực tế, áp lực từ phía nhà cung cấp sẽ được tạo ra trong các trường hợp [5,86] sau:

+ Ngành chỉ có một số ít các nhà cung cấp thậm chí có một doanh nghiệp độc quyền trong việc cung ứng.

+ Sản phẩm của nhà cung cấp có rất ít sản phẩm thay thế và là yếu tố đầu vào quan trọng đối với doanh nghiệp.

+ Sản phẩm của nhà cung cấp có tính khác biệt hoá cao, tạo lợi thế cho doanh nghiệp và được đánh giá cao bởi khách hàng.

+ Doanh nghiệp mua yếu tố đầu vào không phải là khách hàng quan trọng và ưu tiên của nhà cung cấp.

+ Chi phí chuyển đổi nhà cung cấp đối với doanh nghiệp quá lớn.

2.3. Đối thủ cạnh tranh hiện tại.

Xem tất cả 81 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí