Đổi Mới Thể Chế Về Đất Đai Và Hỗ Trợ Mặt Bằng Sản Xuất, Kinh Doanh

khuyến khích người dân đặc biệt là giới trẻ hăng hái đứng ra lập nghiệp, đem sức trẻ dấn thân vào sự nghiệp mới và sẵn sàng đương đầu với những thách thức của sự nghiệp đó. Để khơi gợi tinh thần doanh nhân có thể thực hiện các biện pháp như:

- Tích cực triển khai, mở rộng hơn nữa các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kinh nghiệm, ý chí kinh doanh, sáng tạo tới mọi người dân. Tuy nhiên tuyên truyền, giáo dục phải mang tính thực tiễn, gắn liền với thực tiễn, tránh “giáo điều”, lý thuyết suông. Các hình thức tuyên truyền cũng phải sinh động, dễ hiểu, linh hoạt, hấp dẫn và thường xuyên được đổi mới, đặc biệt khi tiến hành ở các vùng nông thôn, địa phương. Có như vậy mục đích khơi gợi, thuyết phục đối với người dân mới đạt được hiệu quả như mong muốn.

- Thường xuyên tổ chức giao lưu giữa các doanh nhân, các CEO thành đạt với sinh viên các trường đại học; mở ra ngày càng nhiều hơn nữa các diễn đàn về kinh doanh, làm giàu trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền thanh, truyền hình và hiện nay phổ biến nhất là thông qua các diễn đàn trên mạng Internet. Đây sẽ là cơ hội tốt để mọi người dân, đặc biệt là giới trẻ được chia sẻ những quan điểm, suy nghĩ, kinh nghiệm và mong muốn của mình đối với hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động khởi nghiệp kinh doanh nói riêng.

- Thí điểm đưa các kiến thức về kinh doanh, các mô hình doanh nghiệp điển hình, ưu tú vào chương trình học ở các trường phổ thông, đại học, cao đẳng, trung học kỹ thuật và các trường dạy nghề. Tạo điều kiện thuận lợi để các bạn học sinh, sinh viên được sớm tiếp cận với văn hóa kinh doanh, có cơ hội thực tập, trực tiếp tham gia vào các hoạt động khởi sự cũng như quản lý, phát triển doanh nghiệp.

- Mở rộng quy mô và phát triển nhiều hơn nữa các cuộc thi khuyến khích giới trẻ lập nghiệp như cuộc thi “Thắp sáng tài năng kinh doanh trẻ”, “Làm giàu không khó” hay “Chìa khóa thành công”... Đây sẽ không chỉ đơn thuần là sân chơi dành cho những bạn trẻ yêu kinh doanh, khởi nghiệp mà thông qua các cuộc thi còn giúp phát hiện và khuyến khích kịp thời các tài năng kinh doanh của đất nước.

1.2 Đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh

Báo cáo toàn cầu về môi trường kinh doanh 2008 của Công ty tài chính quốc tế (IFC) và Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy đăng ký kinh doanh ở Việt Nam lâu gấp

25 lần so với nhiều nước trên thế giới. Một nhà đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp phải mất gần 50 ngày với chi phí gần 3 triệu đồng (kể cả đăng thông báo thành lập doanh nghiệp trên báo chí) trải qua ít nhất là 4 bước (cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (ĐKKD), khắc dấu, đăng ký mã số thuế và mua hóa đơn tài chính) tại 3 cơ quan khác nhau. Điều này thực sự gây khó khăn, phức tạp, tốn kém cả về thời gian và chi phí đối với doanh nghiệp, nghiêm trọng hơn, nó còn làm nản lòng không ít nhà đầu tư và làm giảm chất lượng môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Do vậy, linh hoạt và đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh luôn là yêu cầu cấp thiết. Cần:

- Xác định cụ thể các ngành nghề kinh doanh “nhạy cảm”; đồng thời quy định rõ ràng các điều kiện kinh doanh đối với các ngành nghề này, tránh tình trạng nhiều ngành nghề kinh doanh thuộc diện có điều kiện nhưng lại chưa có các quy định về điều kiện kinh doanh như các dịch vụ về môi giới việc làm, dịch vụ đòi nợ, dịch vụ định giá tài sản....

- Rà soát, đánh giá lại các hồ sơ, trình tự, thủ tục, chi phí và điều kiện đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp, bao gồm từ khâu khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua bán hóa đơn tài chính ... nhằm xoá bỏ các điều kiện, các giấy phép con và các chi phí bất hợp lý, tiến tới xây dựng cơ chế “một cửa” liên thông và trực tuyến trong đăng ký kinh doanh, cho phép doanh nghiệp có thể đăng ký và theo dõi quá trình xử lý hồ sơ qua mạng... đồng thời xem xét hợp nhất mã số ĐKKD với mã số thuế để giảm bớt sự phức tạp cho SMEs.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

- Đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp giảm chi phí khởi sự doanh nghiệp đến mức cạnh tranh nhất so với các nước trong khu vực như tổ chức và thường xuyên duy trì đối thoại trực tuyến với doanh nghiệp, qua đó doanh nghiệp có thể nhận được những tham vấn về kinh doanh, nộp hồ sơ, thực hiện thủ tục hoàn thuế và khai thác thông tin sơ cấp một cách nhanh và rẻ nhất; giảm nhẹ thủ tục đăng ký kinh doanh thông qua việc thiết lập hệ thống nối mạng đăng ký kinh doanh toàn quốc.

1.3 Đổi mới thể chế về đất đai và hỗ trợ mặt bằng sản xuất, kinh doanh

Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm với Việt Nam - 12

Có “an cư mới lạc nghiệp”, chính vì vậy, đất đai và mặt bằng sản xuất- kinh doanh luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu với doanh nghiệp hiện nay. Tuy nhiên khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng sản xuất, kinh doanh lại đang là một trở

ngại lớn đối với việc khởi sự của các SMEs Việt Nam. Trong khi nhiều doanh nghiệp Nhà nước được giao đất và sử dụng không có hiệu quả, đất đai bỏ hoang hoặc sử dụng không đúng mục đích, thì các SMEs (trong đó chủ yếu là doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân) lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng kinh doanh với chi phí rất lớn. Ngay cả khi doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để có thể thế chấp, cầm cố cũng đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và tiền bạc. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận đất và có thể sử dụng quyền sử dụng đất làm tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn từ các tổ chức tín dụng, trong thời gian tới tập trung giải quyết một số vấn đề:

- Đổi mới các thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các thủ tục giao dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất theo hướng cải cách thủ tục hành chính;

- Thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký đất đai thống nhất trên toàn quốc với chức năng đăng ký và đăng ký lại các giao dịch về đất, hoặc khi có sự thay đổi trong hồ sơ địa chính do các quyết định hành chính gây ra.

- Hình thành một hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo tính ổn định, chắc chắn, công khai, minh bạch đáp ứng yêu cầu của người sử dụng đất, đồng thời giúp Nhà nước quản lý được đất đai thông qua việc xác định mục đích sử dụng đất;

- Xây dựng được hệ thống tổ chức phát triển quỹ đất, giải quyết những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đền bù, tái định cư và thu hồi đất đối với những khu vực sử dụng đất sai mục đích, không có hiệu quả, lãng phí tài nguyên đất.

- Hình thành mô hình khu công nghiệp hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, ở đó doanh nghiệp có dự án đầu tư tốt được thuê với giá hợp lý và họ chỉ phải trả tiền thuê hàng tháng hoặc hàng quý chứ không phải trả tiền 1 lần cho giải phóng mặt bằng.

2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các SMEs

2.1 Hiện đại hóa hệ thống tổ chức, quản lý

Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay, Hàn Quốc đã nhanh chóng thực hiện cải cách phương thức quản lý trong các SMEs của mình. Theo đó, phương thức quản lý truyền thống với hình thức ra quyết định cứng nhắc, từ trên

xuống dưới đã được thay bằng một phương thức mới, hiện đại hơn dựa trên nền tảng công nghệ và tri thức. Nghĩa là không chỉ những người ở vị trí lãnh đạo mới có quyền quyết định về các vấn đề chiến lược, mà tất cả những người có đủ tri thức chuyên gia trong các lĩnh vực đều có quyền tham gia vào những quyết định chiến lược của công ty. Bất kỳ một chính sách nào trước khi đưa ra cũng được công khai bàn bạc thảo luận giữa giám đốc, nhân viên và các đối tác có quan tâm như các cổ đông, các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp... nhằm nhận được ý kiến đóng góp của mọi người. Chính sách đưa ra phải hợp lòng nhân viên cũng như các đối tác thì mới được thực hiện.

Còn ở Việt Nam, hiện nay, hầu hết các SMEs vẫn duy trì mô hình quản lý cũ. Một cấp lãnh đạo cao nhất giữ quyền quyết định tuyệt đối về mọi vấn đề của doanh nghiệp như: mục đích, mục tiêu, đường lối, kế hoạch, kiến trúc tổ chức, nhân sự, công nghệ, phương pháp... Cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp vẫn còn nặng “thưa”, “bẩm”, “báo”, “trình”, tập trung vào chức vụ, quyền hạn nhiều hơn là trách nhiệm. Bản mô tả công việc của mỗi nhân viên trong các phòng ban cũng không rõ ràng, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chồng chéo lên nhau. Đặc biệt giữa các bộ phận không có sự quản lý chặt chẽ với nhau, dẫn đến quyết định giữa các phòng ban nhiều khi đưa ra không ăn khớp, không thống nhất lợi ích chung. Hậu quả là gây lãng phí rất lớn trong hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, vấn đề cần giải quyết ngay chính là cải cách hệ thống tổ chức quản lý trong SMEs:

- Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp, cần có sự phân biệt tương đối về tính chất, công việc của các bộ phận, tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tư chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp một cách nhịp nhàng.

- Người lãnh đạo phải luôn có sự sát sao với mọi hoạt động của nhân viên. Quyết định của lãnh đạo phải được thực hiện trên cơ sở thống nhất lợi ích của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Với những quyết định, chính sách đưa ra phải có sự tổng kết để thấy được mặt được và chưa được, phát huy những điểm tích cực và loại bỏ những điểm chưa phù hợp. Đặc biệt, trong môi trường ngày càng có nhiều biến

đổi như hiện nay, việc thường xuyên đánh giá lại hiệu quả hoạt động của SMEs cùng với hiệu quả của các chính sách quản lý là rất cần thiết.

- Các SMEs cũng cần tăng cường ứng dụng khoa học- công nghệ vào trong hoạt động quản lý của mình. Cơ chế làm việc nên chuyển dần từ phương thức truyền thống chủ yếu thông qua yếu tố con người sang phương thức làm việc hiện đại dựa trên nền công nghệ. Doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng hệ thống mạng nội bộ trước hết là loại B (thông tin giữa doanh nghiệp với các đối tác trong nước) sau đó tiến tới loại C (mạng thông tin quốc tế). Có như vậy, mới đảm bảo hoạt động truyền tin trong doanh nghiệp được nhanh chóng, kịp thời, không bị ngắt quãng, cho phép mọi nhân viên nắm rõ mọi kế hoạch, mục tiêu hoạt động của công ty.

2.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Trong thời đại nền kinh tế tri thức như hiện nay, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trong SMEs để có thể tiếp thu khoa học kỹ thuật cũng như thích ứng với thay đổi của môi trường là các vấn đề vô cùng quan trọng. SMEs Hàn Quốc nhận thức sâu sắc rằng nguồn nhân lực có kỹ năng kỹ xảo chính là tài sản quý báu cho phép phát huy sức mạnh của các tài sản khác. Vì thế nhiều chính sách và biện pháp thúc đẩy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các SMEs Hàn Quốc đã được đưa ra (như đã trình bày ở chương II).

Học hỏi kinh nghiệm về vấn đề này của nước bạn, để có được đội ngũ lao động đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, các SMEs Việt Nam cần tập trung thực hiện các giải pháp:

- Xây dựng cơ chế tuyển dụng năng động, hiệu quả, đưa ra nhiều chính sách tuyển dụng hấp dẫn để thu hút những sinh viên ưu tú, những lao động bậc cao, lành nghề vào làm việc cho các SMEs.

- Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có ở các doanh nghiệp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, lao động đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm pháp luật và đạo đức. Đây là

giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng.

- Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: cải thiện môi trường làm việc, đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của SMEs. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Biện pháp này sẽ giúp các SMEs có thể dễ dàng điều chỉnh lao động khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động.

- Tiêu chuẩn hóa cán bộ, lao động trong doanh nghiệp. Ở mỗi ngành nghề, vị trí công tác, cung bậc công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo điều kiện khu vực và đặc thù của Việt Nam, tôn trọng tính văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.

- Khuyến khích tạo điều kiện để nhân viên đi học bồi dưỡng tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và luật lệ buôn bán quốc tế.

- Đối với những vị trí cần nguồn nhân lực ngay mà thị trường lao động không có khả năng đáp ứng cần tính đến việc thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài. Tiến hành lựa chọn cán bộ giỏi để tiếp cận và học hỏi, qua đó dần dần sẽ là những người thay thế trong tương lai.

- Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường.

2.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong điều hành kinh doanh

Như chúng ta đều biết, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử (TMĐT) nhanh và ổn định. Môi trường CNTT ở quốc gia này được đánh giá là phát triển và đạt tiêu chuẩn quốc tế cao. Trong điều kiện

đó, các doanh nghiệp Hàn Quốc nói chung và các SMEs nói riêng đã gặp nhiều thuận lợi trong việc tiếp cận với các nguồn thông tin thương mại đa dạng và phong phú, từ đó cho phép cải thiện và nâng cao mạnh mẽ hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Việt Nam là nước đi sau, trình độ công nghệ thông tin và thương mại điện tử nói chung còn nhiều hạn chế, trong khi nhu cầu của doanh nghiệp về các thông tin như: thông tin về môi trường kinh doanh, thông tin về hệ thống phân phối, giá cả mặt hàng hiện hành, thông tin về tình hình và viễn cảnh của thị trường, thông tin về hệ thống giao thông vận tải.... luôn là vấn đề cấp thiết. Trong hoàn cảnh đó, hơn ai hết, tự bản thân các doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực xây dựng một hệ thống thông tin hiệu quả cho mình. Các biện pháp sau đây có thể phần nào đóng góp cho việc xây dựng hệ thống này ở các doanh nghiệp:

- Xây dựng các chi nhánh nhằm thu được thông tin chính xác, kịp thời về giá cả, chất lượng, điều kiện giao hàng…

- Liên kết vời các bạn hàng truyền thống để họ có thể giúp đỡ về vấn đề thông tin. Xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách nhằm nghiên cứu đầy đủ, cung cấp thông tin về thị trường có thể dự báo về các biến động của thị trường.

- Áp dụng biện pháp tin học hóa vào hoạt động kinh doanh thông qua việc hòa mạng với hệ thống thông tin đã có trên thế giới. Các SMEs cần phải xây dựng một mạng tin học có thể nối mạng với Intemet nhằm thu thập thông tin ở thị trường thế giới.

- Dưới tác động của khoa học và công nghệ, mà đặc biệt là công nghệ thông tin đã làm xuất hiện hình thức thương mại tiên tiến - thương mại điện tử. Các SMEs tuy quy mô nhỏ bé và hoạt động trên một thị trường hạn chế, nhưng cũng phải chủ động áp dụng và phát triển thương mại điện tử, nếu không sẽ bị cô lập với thế giới bên ngoài. Việc triển khai áp dụng thương mại điện tử có thể được tiến hành từng bước, từ thấp tới cao. Giai đoạn đầu tư có thể triển khai chủ yếu ở khâu xúc tiến hoạt động kinh doanh, dưới hình thức mở trang web quảng cáo trên mạng, tìm kiếm thông tin về thị trường và bán hàng trên mạng, tiến hành các giao dịch trước khi ký kết hợp đồng và sử dụng cho các mục đích quản trị bên trong doanh nghiệp. Khi điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở pháp lý cho phép thì có thể tiến tới ký kết hợp đồng và thực hiện thanh toán trên mạng.

- Để phát triển thương mại điện tử, các SMEs kể cả doanh nghiệp sản xuất và thương mại cần chủ động xây dựng và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế như ISO: 9000, HACCP và ISO: 14.000... vì kinh doanh trên mạng đòi hỏi rất cao về tiêu chuẩn hóa sản phẩm và chất lượng.

2.4 Giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm

Mặc dù năng suất lao động và tỷ trọng đóng góp vào tổng sản lượng quốc gia của cả SMEs Hàn Quốc và Việt Nam đang không ngừng được nâng lên, vai trò và vị trí của SMEs trong nền kinh tế nhờ đó ngày càng được khẳng định, tuy nhiên vẫn có một hạn chế chung mà cả SMEs Hàn Quốc và Việt Nam vẫn đang phải đối mặt, đó là chi phí sản xuất còn duy trì ở mức cao, sản phẩm chưa thể lấy giá thành làm yếu tố cạnh tranh hiệu quả trên thị trường. So với năng lực sản xuất hàng loạt với chi phí rất thấp của Trung Quốc thì cả Hàn Quốc và Việt Nam còn bị tụt lại ở một khoảng cách tương đối xa. Yêu cầu đặt ra lúc này là SMEs của hai nước phải không ngừng nỗ lực hơn nữa trong việc cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh cho phép duy trì giá thành sản phẩm ở mức tối ưu, hợp lý. Theo đó, một vài biện pháp có thể áp dụng như:

- Nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ người lao động về ý nghĩa sống còn của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm.

- Khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập thể nhằm tìm cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý doanh nghiệp... Ngoài ra, từng thành viên trong SMEs, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ lao động trực tiếp làm ra sản phẩm cần tự trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề.

- Với hiện trạng công nghệ và thiết bị sản xuất lạc hậu như hiện nay của các SMEs Việt Nam đã dẫn tới tình trạng định mức tiêu hao về chi phí nguyên vật liệu lớn và phát sinh thêm nhiều chi phí cho sửa chữa, bảo dưỡng. Do đó, trước mắt cần đẩy mạnh đầu tư và thay thế một số loại thiết bị, máy móc sản xuất đã quá lạc hậu, cho năng suất thấp và tiêu hao nhiều năng lượng. Tuy nhiên, trong điều kiện nhiều SMEs còn thiếu vốn, tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh để đầu tư đồng bộ công nghệ và thiết bị thì các doanh nghiệp này cần chủ động trong việc liên kết và hợp tác kinh

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí