Nhóm Giải Pháp Về Cải Thiện Cơ Sở Hạ Tầng


Cần đảm bảo tính minh bạch trong cải cách thủ tục hành chính: công khai văn bản pháp lý về thủ tục hành chính, minh bạch trong tuyển dụng, đào tạo, minh bạch trong giải quyết thủ tục hành chính, minh bạch tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin. Để tăng cường tính minh bạch trong giải quyết thủ tục hành chính cần xây dựng và tăng cường sử dụng mạng điện tử để hạn chế tiếp xúc giữa DN và công chức, tăng tính công khai, rõ ràng, cập nhật của các thủ tục hành chính.

3.3.6. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực

Sự thiếu hụt cán bộ quản lý cấp cao, kỹ sư trình độ cao và lao động lành nghề ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ nguồn vốn FDI. Tồn tại này có nguyên nhân là do bất cập trong công tác hoạch định, định hướng nghề và bất cập của hệ thống giáo dục đào tạo. Để lao động qua đào tạo đáp ứng yêu cầu nhà tuyển dụng về chất lượng thì cần phải đổi mới hệ thống giáo dục, tránh tình trạng lao động được đào tạo xong thì nhu cầu tuyển dụng bão hòa hoặc DN phải mất chi phí đào tạo lại.

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng tốt nhu cầu của DN cũng như đảm bảo việc làm cho người lao động, cần thực hiện các bước sau:

Thứ nhất, căn cứ vào quy hoạch phát triển ngành, vùng, xác định nhu cầu nhân lực cho toàn bộ nền kinh tế trong 5-10-20 năm tới. Nhu cầu nhân lực cần xác định cả về quy mô và cơ cấu lao động theo ngành, vùng. Tuy nhiên, chỉ có quy hoạch phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng tốt thì việc dự tính nhu cầu lao động mới có tính chính xác cao. Việc dự báo nhu cầu lao động cần phải tính tới xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng của nước ta.

Thứ hai, cần xác định kỹ năng từng loại lao động cần phải có kể cả quản lý, kỹ sư và lao động lành nghề. Kỹ năng từng loại lao động cần phải tính đến yêu cầu của DN trong tương lai, trong đó chú trọng đến kỹ năng thực hành và các kỹ năng mềm như tinh thần làm việc nhóm, trách nhiệm, ý thức, thái độ, tác phong làm việc, kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo, thuyết trình... Kỹ năng này cần xác định càng chi tiết càng tốt căn cứ vào mô tả chi tiết công việc của từng loại lao động.


Thứ ba, so sánh nhu cầu lao động và khả năng đáp ứng lao động hiện có để dự tính lượng lao động thiếu hụt theo ngành và vùng, làm cơ sở cho việc đào tạo lại lao động. Đây là căn cứ cho công tác hướng nghiệp lao động, tránh tình trạng thừa, thiếu lao động. Một số ngành “hot” ở hiện tại, học viên, sinh viên đổ xô vào học, nhưng khi học xong thì ngành này đã bão hòa làm dư thừa lao động, nhiều người học xong không thể tìm được việc làm trong khi đó một số ngành mới nổi thì không đáp ứng. Tồn tại này một phần do công tác hướng nghiệp chưa tốt.

Thứ tư, xây dựng kế hoạch đào tạo lao động. Kế hoạch đào tạo lao động cần cho biết số lượng lao động cần đào tạo trong từng ngành, từng vùng, từng địa phương trong từng năm, từng thời kỳ; phương thức đào tạo; nội dung đào tạo; cơ sở đào tạo và kinh phí cho công tác đào tạo lao động.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Thứ năm, phát triển hệ thống các trường đào tạo, dạy nghề, cao đẳng, đại học. Cần đưa ra tiêu chuẩn tối thiểu cần đáp ứng của các trường đào tạo, thậm chí đưa ra tiêu chuẩn cho mỗi ngành, mỗi cấp đào tạo. Dựa trên kế hoạch đào tạo lao động, cần định kỳ rà soát lại hệ thống các trường đào tạo từ dạy nghề đến cao đẳng, đại học ở tất cả các địa phương. Nếu trường nào không đáp ứng tiêu chuẩn thì cần loại bỏ. Đầu tư nâng cấp và phát triển thêm các trường đào tạo lên ngang tầm khu vực và thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu lao động. Cụ thể, cần đầu tư đổi mới chương trình dạy học; nâng cao trình độ đào tạo của giáo viên, xác định yêu cầu tối thiểu giáo viên phải có; hiện đại hóa, trang bị đồng bộ, có hệ thống cơ sở vật chất chất, máy móc thiết bị, phương tiện dạy học phù hợp với nội dung và phương pháp dạy học. Khi nâng cấp và phát triển hệ thống giáo dục đào tạo, cần đảm bảo tính đồng bộ của chương trình học, nội dung học, phương pháp học, và giảng viên giảng dạy.

Thứ sáu, cần kết hợp giữa nhà trường và DN trong công tác đào tạo. Cách làm này cho phép kết hợp được học đi đôi với hành, sau khi học xong người lao động có thể đảm nhận công việc không phải đào tạo lại. Tuy nhiên, để có thể phối hợp giữa nhà trường và DN trong đào tạo được tốt, cần có sự cam kết của

Môi trường đầu tư với hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - 24


người học sau khi tốt nghiệp và chính sách trả lương, thưởng và môi trường làm việc thích hợp.

Thứ bảy, thực hiện xã hội hoá công tác đào tạo. Nguồn vốn cho công tác đào tạo cần được đa dạng hóa, gồm chi phí của người học, DN, ngân sách. Bên cạnh đó, tiến hành đào tạo trong trường kết hợp với đào tạo thực tế tại doanh nghiệp.

Thứ tám, để đảm bảo lợi ích của người lao động và của DN, cần hoàn thiện pháp luật, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong sự thay đổi môi trường kinh tế trong nước và trên thế giới. Tăng cường việc hỗ trợ, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động để đảm bảo điều kiện lao động và chế độ đãi ngộ với người lao động, đồng thời phát hiện những vướng mắc trong công tác quản lý lao động với DN FDI để có biện pháp hỗ trợ và điều chỉnh thích hợp.

Để thu hút nguồn vốn FDI có chất lượng thì bên cạnh việc phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu lao động cho các DN FDI, cần chú trọng nâng cao trình độ của nhân lực quản lý ở các cấp. Chính sách phân cấp đầu tư sẽ được thực hiện hiệu quả khi cán bộ, công chức các địa phương có đủ năng lực để quản lý hoạt động đầu tư, từ khâu thẩm định dự án để cấp giấy chứng nhận đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư, và đến khi dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Cần xây dựng chính sách và đào tạo cán bộ quản lý đầu tư ở các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở về chuyên môn, về năng lực thẩm định, quản lý dự án để lựa chọn được các dự án có chất lượng, có hiệu quả kinh tế xã hội cao.

3.3.7. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng

Sự yếu kém của cơ sở hạ tầng cả về số lượng cũng như chất lượng là một trong những nguyên nhân khiến chi phí kinh doanh tại Việt Nam quá cao. Do đó, cải thiện cơ sở hạ tầng là nhiệm vụ cấp bách nhằm tăng cường thu hút FDI trong thời gian tới và nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án FDI đang triển khai. Đầu tư cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng cần một khối lượng vốn đầu tư rất lớn nên không thể đầu tư dàn trải mà phải đầu tư có trọng điểm, từng bước căn cứ vào nhu cầu phát triển có tính tới khả năng cân đối các nguồn vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Hơn


nữa, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phải đảm bảo tính đồng bộ, đi trước, đón đầu. Để cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng hiệu quả cần thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, cần rà soát, điều chỉnh các quy hoạch kết cấu hạ tầng dựa trên quy hoạch phát triển kinh tế ngành và vùng. Vì đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng vô cùng tốn kém nên quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng cần xuất phát từ dự báo về nhu cầu cầu thị trường, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong khoảng thời gian dài hạn 20-50 năm, thậm chí trong khoảng thời gian dài hơn. Quy hoạch giao thông vận tải đồng bộ giữa các phương thức vận tải: đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không; có tính đến xu hướng phát triển công nghệ vận tải trong tương lai; đảm bảo tính liên kết với vận tải quốc tế; và phải tính đến nhu cầu trong tương lai. Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng là cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.

Thứ hai, tăng cường thực hiện xã hội hoá đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và mở rộng phương thức đầu tư. Nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phải huy động tối đa từ nhiều nguồn: nguồn vốn tư nhân, nguồn vốn ĐTNN, nguồn vốn ODA, nguồn vốn ngân sách. Từ trước tới nay, nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chủ yếu là vốn ngân sách (có tính đến nguồn vốn ODA) do các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng có hiệu quả tài chính thấp đối với chủ đầu tư, thời gian thu hồi vốn thường dài. Đối với tất cả hoạt động đầu tư, hiệu quả đầu tư vẫn là thước đo để quyết định đầu tư. Tuy nhiên, đối với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phải tính đến hiệu quả kinh tế xã hội của dự án đầu tư, những lợi ích gián tiếp mà dự án mang lại cho toàn bộ nền kinh tế. Để huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, với các lĩnh vực có hiệu quả tài chính thấp thì Nhà nước cần đưa ra các ưu đãi khác cho chủ đầu tư để tăng hiệu quả tài chính. Ngược lại, những dự án không mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao cần loại bỏ, loại bỏ tâm lý bất cứ dự án nào đầu tư vào cơ sở hạ tầng cũng là cần thiết, cũng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Hơn nữa, trong điều kiện nguồn vốn huy động cho phát triển cơ sở hạ tầng còn hạn chế thì cần sắp xếp dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo thứ tự ưu tiên trên cơ sở đánh giá


hiệu quả tương đối giữa lợi ích kinh tế xã hội thu được của dự án với vốn đầu tư. Sau đó, ưu tiên thực hiện những dự án có hiệu quả tương đối cao nhất trước. Do đó, việc đánh giá lợi ích kinh tế xã hội của dự án đầu tư đầy đủ sẽ là cơ sở để xác định đúng hiệu quả tương đối của dự án, để tập trung vốn đầu tư, tránh hiện tượng phân bổ đều vốn ngân sách cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho tất cả các địa phương.

Kết hợp việc đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư với đa dạng hóa hình thức đầu tư như xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT), xây dựng-chuyển giao (BT). Nguồn vốn ngân sách chỉ tập trung đầu tư cho việc lập quy hoạch và các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng trọng yếu, không có khả năng thu hồi vốn đầu tư. Hình thức BOT áp dụng cho dự án có khả năng hoàn vốn như đầu tư phát triển giao thông đường bộ, đầu tư vào các cảng biển. Hình thức BT như đổi đất lấy công trình áp dụng cho dự án không có khả năng thu hồi vốn.... Ngoài ra, chú trọng đầu tư cho công tác duy tuy, bảo dưỡng, sử dụng cơ sở hạ tầng để đảm bảo năng lực phục vụ của công trình cũng như việc tốn kém chi phí cho việc đầu tư lại công trình.

Nhà nước cần xây dựng khung pháp lý và ban hành cơ chế để thực hiện xã hội hóa đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân nhằm đưa những công trình hạ tầng đang xây dựng dở dang vào hoạt động, tránh sự lãng phí không đáng có.

Thứ ba, tập trung đầu tư cho các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, cụ thể

- Để đảm bảo tính kết nối giữa các phương thức vận tải (đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường biển, đường hàng không), giữa các vùng, địa phương và với quốc tế thì cần đầu tư phát triển các tuyến đường giao thông giữ vai trò kết nối giữa các vùng, địa phương và các tuyến hành lang kinh tế. Đầu tư phát triển giao thông vận tải cần tính đến nhu cầu vận chuyển trong tương lai, điều kiện địa lý tự nhiên, an ninh quốc gia và nguồn vốn đầu tư. Về đường bộ, cần nâng cấp các tuyến đường trọng yếu, hệ thống đường bộ cao tốc đảm bảo giao thông thông suốt giữa các vùng kinh tế trọng điểm, giữa


các vùng, địa phương và với quốc tế, như tuyến Bắc-Nam, hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, hành lang kinh tế Đông-Tây. Nâng cấp mạng lưới giao thông phù hợp với đặc điểm (tự nhiên, kinh tế, xã hội, thực trạng giao thông) của từng vùng và phù hợp với phương tiện vận tải. Về đường sắt, nâng cấp các tuyến đường sắt phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế đồng thời với việc nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, gồm tuyến đường sắt Bắc-Nam, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn. Đầu tư phát triển, bao gồm mở rộng và hiện đại hóa các đầu mối giao lưu quốc tế (các cảng hàng không quốc tế và các càng biển). Xây dựng một số cảng biển trung chuyển lớn ở Hải Phòng, Quảng Trị, Thành phố Hồ Chí Minh [41]. Những cảng trung chuyển lớn này sẽ giảm chi phí vận tải biển và phát triển ngành logictics. Ngoài ra, cần mở rộng, nâng cao năng lực bốc xếp và khả năng thông quan ở các cảng biển chính, mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, xây dựng các tổng kho trung chuyển để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam.

- Đầu tư phát triển năng lượng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Đa dạng hóa nguồn cung cấp điện, tăng năng lực cấp điện nhằm đảm bảo không xảy ra thiếu điện. Bên cạnh nguồn năng lượng truyền thống (thủy năng, than), cần tăng cường sản xuất và sử dụng điện từ các nguồn năng lượng mặt trời, khí, sức gió, nguyên tử. Ngoài ra, cần đầu tư nâng cấp lưới điện chuyền tải và phân phối, giảm thất thoát điện, từ đó giảm giá thành điện. Việc đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho sản xuất và kinh doanh điện cũng là biện pháp để tăng tính cạnh tranh, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, đảm bảo tính cạnh tranh về giá điện so với các nước trong khu vực nhưng cũng cần chú ý đến việc bảo đảm an toàn năng lượng quốc gia.

- Đầu tư phát triển mạng lưới thông tin hiện đại. Thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. Đồng thời, phải quản lý và khai thác hiệu quả mạng lưới viễn thông, đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả lĩnh vực kinh tế, xã hội như công tác quản lý vĩ


mô của nhà nước, trong hoạt động quản lý của các DN, hoạt động thương mại, tư vấn, dịch vụ tài chính, giáo dục, y tế... nhằm tiết kiệm thời gian, tạo cơ hội cũng như giảm chi phí cho DN, tổ chức và người dân.

3.3.8. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư

Trước năm 2003, công tác XTĐT của Việt Nam chưa được chú trọng. Nhận thấy tầm quan trọng của công tác XTĐT, chính phủ Việt Nam đã thành lập trung tâm XTĐT miền Bắc, trung tâm XTĐT miền Trung, Trung tâm XTĐT Miền Nam thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Để nâng cao hiệu quả hoạt động XTĐT, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình Quốc gia về Xúc tiến Đầu tư giai đoạn 2007- 2010, được coi là biện pháp quảng bá môi trường đầu tư để thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam. Cùng thực hiện công tác XTĐT còn có các Sở KH&ĐT cấp tỉnh và các Trung tâm XTĐT được thành lập ở các tỉnh. Nhiều tỉnh đã thành lập bộ phận XTĐT chuyên trách độc lập, ở một số tỉnh lại thành lập trung tâm XTĐT trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư, một số tỉnh hình thành trung tâm xúc tiến du lịch và đầu tư, thương mại và du lịch, một số tỉnh thì Sở Kế hoạch và Đầu tư đảm nhiệm công việc xúc, nhưng lại không thành lập bộ phận xúc tiến độc lập. Các cơ quan XTĐT trung ương và địa phương cùng các Bộ, ngành liên quan đã thực hiện nhiều hoạt động XTĐT gồm tổ chức các hội nghị XTĐT trong nước; các đoàn khảo sát, XTĐT tại nước ngoài; đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực XTĐT; và xây dựng tài liệu XTĐT.

Tuy nhiên, công tác XTĐT còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Công tác xúc tiến trên cả nước và các địa phương đã được chú trọng như tiến hành thường xuyên các chương trình kêu gọi XTĐT tại nước ngoài, các hội thảo, các cuộc gặp DN FDI. Việc phân cấp quản lý và cấp giấy chứng nhận cũng làm tăng tính năng động và tính cạnh tranh giữa các bộ phận XTĐT ở các tỉnh. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác XTĐT chưa cao do thiếu sự liên kết giữa các địa phương trong tổ chức XTĐT, còn sự chồng chéo trong XTĐT, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận xúc tiến cấp tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Bộ


Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan khác thuộc chính phủ. Công tác XTĐT còn hạn chế là do chưa có một chiến lược tổng thể về XTĐT làm cho công tác XTĐT thiếu tính hệ thống; việc chuẩn bị và thực hiện chương trình XTĐT chưa bài bản, chưa tốt; do cơ chế quản lý hoạt động FDI; do kinh nghiệm và trình độ của cán bộ làm công tác XTĐT còn yếu kém; do thiếu sự trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài, cũng như của một số tổ chức quốc tế. Chẳng hạn, ngay trên địa bàn thành phố có 2 cơ quan quản lý các dự án FDI đó là Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố và Ban quản lý các Khu Công nghiệp và Chế xuất Hà Nội, hai cơ quan chưa phối hợp chặt chẽ trong các khâu xúc tiến kêu gọi và cấp phép đầu tư các dự án FDI, thậm chí dẫn đến sự cạnh tranh trong tiếp nhận các nhà đầu tư tới Hà Nội. Giữa các địa phương có vị trí địa lý gần nhau, tương đồng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội cũng không hợp tác, phối hợp với nhau trong XTĐT, dẫn đến sự cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư, gây ảnh hưởng đến lợi ích của đất nước.

Để thu hút FDI có hiệu quả thì bên cạnh việc cải thiện môi trường đầu tư, cần nâng cao chất lượng hoạt động XTĐT.

Thứ nhất, Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và điều chỉnh danh mục dự án kêu gọi ĐTNN phù hợp với quy hoạch ngành, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội vùng và nhu cầu đầu tư phát triển trong từng thời kỳ. Danh mục dự án kêu gọi ĐTNN phải đưa thông tin cần thiết của các dự án để các nhà đầu tư có điều kiện lựa chọn. Tăng cường thu hút đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, công nghệ cao, vật liệu mới. Danh mục dự án kêu gọi đầu tư cần công bố công khai trên các trang thông tin điện tử của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tư, của trung tâm XTĐT, sở kế hoạch đầu tư các tỉnh thành phố, ủy ban nhân dân tỉnh và ban quản lý các khu công công nghiệp, khu chế xuất.

Thứ hai, xây dựng hệ thống thông tin về môi trường đầu tư, định hướng phát triển, cơ hội đầu tư. Thông tin về môi trường đầu tư phải thường xuyên cập nhật sự thay đổi của các yếu tố của môi trường đầu tư như môi trường pháp luật, chính sách, thủ tục hành chính, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, thị trường tài chính... để nhà đầu

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 13/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí