nghiệp từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa); giảm thuế giá trị gia tăng của một số mặt hàng dịch vụ, giảm thu lệ phí trước bạ đối với ô tô loại dưới 10 chỗ ngồi. Mục đích của giảm thu thuế là giảm chi phí của DN, để tăng tích lũy của DN, kích thích sản xuất, đầu tư và tiêu dùng. Hơn nữa, Chính phủ chi Ngân sách để giải quyết an sinh xã hội như hỗ trợ lao động mất việc, cho vay hộ nghèo.
Để tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư, Việt nam cần tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô để tạo dựng và duy trì niềm tin của DN đối với môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Tiếp tục sử dụng linh hoạt chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và an sinh xã hội đồng thời phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để đảm bảo phát triển bền vững, chủ động hội nhập quốc tế. Cần sử dụng công cụ lãi suất thận trọng để có thể huy động vốn cả trong và ngoài nước đồng thời vẫn kích thích hoạt động đầu tư, đảm bảo hiệu quả đầu tư của DN. Tương tự với chính sách tỷ giá, nếu giá VNĐ thấp thì khuyến khích xuất khẩu ngược lại nợ chính phủ bằng ngoại tệ tăng việc nhập khẩu máy móc thiết bị, và nguyên vật liệu cần cho sản xuất tăng, giá hàng nhập khẩu tăng làm chi phí sản xuất có thể làm tăng lạm phát, làm tăng thâm hụt ngân sách. Chính phủ cần phối hợp chặt chẽ, đồng bộ hơn nữa trong xây dựng và điều hành chính sách tài chính, chính sách tiền tệ. Tiếp tục giảm các rào cản đối với hoạt động đầu tư để tăng cường thu hút vốn đầu tư nói chung và FDI nói riêng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
3.3.2. Giải pháp về qui hoạch
Công tác quy hoạch đòi hỏi phải đi trước một bước làm cơ sở cho việc cấp giấy chứng đầu tư và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Quy hoạch tốt sẽ thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, là cơ sở, tiền đề cho công tác quản lý quy hoạch hiệu quả; cho việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và triển khai thực hiện đầu tư thuận lợi. Gắn chặt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch nhằm phát hiện kịp thời những bất cập liên quan như quy hoạch thiếu, quy hoạch bị phá
vỡ để kịp thời sửa đổi, bổ sung. Cần phối hợp thống nhất giữa quy hoạch phát triển kinh tế xã hội với quy hoạch vùng, quy hoạch ngành và quy hoạch sử dụng đất.
Khi xây dựng quy hoạch cần đáp ứng các yêu cầu:
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, vùng phải căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Quy hoạch phải dựa vào lợi thế của quốc gia và các vùng.
Có thể bạn quan tâm!
- Thủ Tục Hành Chính Vẫn Khiến Nhiều Nhà Đầu Tư Mệt Mỏi
- Cơ Sở Hạ Tầng Và Nguồn Nhân Lực Là Những Rào Cản Đối Với Hoạt
- Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư Thường Xuyên Và Định Kỳ
- Tăng Cường Tính Minh Bạch Của Nền Kinh Tế
- Nhóm Giải Pháp Về Cải Thiện Cơ Sở Hạ Tầng
- Môi trường đầu tư với hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - 25
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
Quy hoạch phải gắn với nhu cầu thị trường, có tính đến khả năng của các nguồn lực đầu tư.
Quy hoạch phải có tính định hướng và tầm nhìn dài hạn.
Quy hoạch phải có tính mở, việc xây dựng quy hoạch ngành phải phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế cũng như sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài.
Quy hoạch phải có tính khoa học, tính khả thi.
Các quy hoạch phải thống nhất, không chồng chéo, có sự gắn kết giữa quy hoạch.
Phải đầu tư thích đáng cho công tác lập quy hoạch từ nguồn vốn ngân sách.
Đồng thời, tổ chức tốt công tác lập và thực hiện quy hoạch, cần có sự thống nhất quản lý và sự phối hợp giữa các ngành, địa phương trong công tác này.
Để đáp ứng các yêu cầu trên, việc xây dựng và quản lý quy hoạch cần thực hiện theo các bước:
Xác định lợi thế của Việt Nam, vùng, địa phương ở hiện tại cũng như sự thay đổi các lợi thế trong tương lai.
Xác định nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu ở hiện tại và tương lai.
Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, địa phương.
Dự thảo quy hoạch cần tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên gia trong, ngoài nước, các ngành và công chúng; tránh tình trạng khép kín trong công tác xây dựng quy hoạch.
Hoàn chỉnh quy hoạch và ban hành.
Công khai tất cả quy hoạch, nhằm giảm tình trạng tiêu cực, giảm rào cản cho thu hút và thực hiện FDI. Sử dụng mạng làm công cụ để công khai các quy hoạch.
Phải giám sát thực hiện quy hoạch tránh tình trạng không tuân thủ quy hoạch làm phương hại đến lợi ích của quốc gia, của nhà đầu tư đồng thời phát hiện những vấn đề nảy sinh, bất hợp lý của quy hoạch.
Định kỳ đánh giá quy hoạch để sửa đổi, bổ sung, cập nhật quy hoạch lạc hậu, làm căn cứ cho nhà đầu tư xác định cơ hội đầu tư chung một cách dễ dàng.
3.3.3. Môi trường chính sách, pháp luật
Trong quá trình cải thiện môi trường chính sách, pháp luật cần xác định rõ lợi ích kinh tế xã hội của Việt Nam khi thu hút vốn ĐTNN. Ngoài ra, cần chú ý tới tính hệ thống của môi trường đầu tư: đảm bảo tính đồng bộ, tính thống nhất của văn bản pháp luật, tránh chồng chéo mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật; phù hợp với cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng luật và thực thi luật. Cụ thể, trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện môi trường chính sách, pháp luật:
Cần thu hút vốn ĐTNN có chọn lọc, mang lại giá trị gia tăng cao, có hiệu quả kinh tế xã hội lớn; đồng thời tránh thu hút vốn ĐTNN có ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái, sử dụng công nghệ lạc hậu, sử dụng lãng phí tài nguyên, năng lượng, đất của Việt Nam. Tập trung thu hút vốn đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, dự án đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghệ cao. Cần nghiên cứu và đưa ra các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, dự án đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghệ cao nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của DN.
Để đảm bảo tính đồng bộ của văn bản pháp luật, tránh gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật về hoạt động đầu tư, kinh doanh, Việt Nam cần tiếp tục xem xét, rà soát các văn bản pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để bổ sung, sửa đổi các nội dung không rõ ràng, từ ngữ gây hiểu nhầm, nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành; giữa luật và các văn bản hướng dẫn; giữa văn bản pháp luật và lộ trình thực hiện cam kết WTO. Tại hội thảo lấy ý kiến đóng góp của các DN FDI về Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số cam kết về đầu tư của Việt Nam với WTO do Hiệp hội DN ĐTNN và Chương trình hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO tổ chức ngày 27/6/2007 tại Hà Nội, nhiều DN và cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư cho rằng ngôn ngữ trong biểu cam kết khó hiểu như từ “không cam kết”, “không hạn chế” thì còn nhiều cách hiểu khác nhau, và ngay trong thành viên đoàn đàm phán cũng không thống nhất cách hiểu [6]. Hay sự thiếu nhất quán giữa các văn bản pháp luật là nguyên nhân gây ra tình trạng vỡ quy hoạch ngành thép với 32 dự án thép được cấp phép đầu tư nằm ngoài quy hoạch cho đến hết quý II năm 2009. Quá nhiều dự án dẫn tới nguyên liệu không đủ đáp ứng, hơn nữa cung thép vượt quá nhu cầu, tạo ra tình trạng dư thừa, các dự án bị lỗ. Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang trong báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ cho rằng 32 dự án thép các địa phương cấp phép ngoài quy hoạch là do các văn bản pháp luật không thống nhất. Theo Luật Đầu tư, các địa phương cấp giấy chứng nhận đầu tư cho dự án thép không có trong danh mục quy hoạch có vốn nhỏ hơn 1500 tỷ đồng mà không xin chủ trương của Thủ tướng là không sai. Trong khi, theo Luật xây dựng và Nghị định 16/2005/NĐ-CP thì dự án nhóm B có vốn đầu tư dưới 1.500 tỷ đồng phải xin ý kiến chấp thuận về chủ trương của Thủ tướng trước khi lập dự án.
Cần kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh việc thi hành pháp luật liên quan đến thu hút vốn FDI. Theo biểu cam kết về dịch vụ, nhiều ngành đưa ra cam kết chặt chẽ hơn so với pháp luật hiện hành của Việt Nam (nhiều ngành trước khi gia nhập WTO đã mở cửa ở mức độ cao hơn so cam kết) như dịch vụ
giáo dục, y tế đã cho phép thành lập DN 100% vốn nước ngoài cả chục năm nay, thậm chí ngành giáo dục còn được khuyến khích và hưởng ưu đãi thì theo biểu cam kết đến ngày 1/1/2009 nhà ĐTNN mới được thành lập DN 100% vốn nước ngoài. Hay, nhà ĐTNN muốn đầu tư vào lĩnh vực ngoài biểu cam kết thì không được cấp phép đầu tư. Vậy, các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư nên áp dụng theo pháp luật hiện hành Việt Nam hay theo biểu cam kết? Nhiều cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư đã từ chối cấp phép để đảm bảo an toàn.
Để đảm bảo lợi ích của cộng đồng, tránh cấp phép cho dự án gây ô nhiễm môi trường, các địa phương cần thực hiện đúng quy trình thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư. Cần nghiên cứu và ban hành chế tài xử lý các cá nhân thuộc các chính quyền địa phương không tuân thủ đúng quy trình này. Đặc biệt đối với dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư nhưng có ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường xã hội thì phải dừng dự án, mọi chi phí nhà ĐTNN đã bỏ ra phải do cá nhân thuộc chính quyền địa phương hoàn trả cho nhà ĐTNN. Các cấp quản lý hoạt động đầu tư thực hiện tốt công tác giám sát đầu tư từ khâu cấp giấy chứng nhận đầu tư, đến cả quá trình thực hiện và vận hành dự án đầu tư để đảm bảo đạt được các lợi ích kinh tế xã hội mong muốn từ dự án ĐTNN. Khi thực hiện phân cấp cấp giấy chứng nhận đầu tư triệt để, sự năng động của chính quyền địa phương có ảnh hưởng lớn đến thu hút, thực hiện vốn FDI, nhưng cần tránh tái diễn tình trạng “xé rào” về ưu đãi đầu tư cũng như về thủ tục, gây ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế xã hội của Việt Nam. Như Dự án Giấy và bột giấy của Công ty Lee & Man đầu tư vào Hậu Giang với vốn đầu tư dự án là 280 triệu USD, đặt tại ấp Phú Thạnh, xã Phú Hữu A, huyện Châu Thành, Hậu Giang là một ví dụ về việc không tuân thủ quy định đầu tư. Hồ sơ dự án gửi Bộ Công thương hồi tháng 4/2007, có kèm theo đề nghị của lãnh đạo UBND tỉnh Hậu Giang về việc thẩm tra cấp phép dự án đầu tư của Công ty Lee & Man Việt Nam, tên dự án là "Dự án Xây dựng Nhà máy sản xuất giấy cứng bao bì cao cấp sản lượng 420.000 tấn/năm sử dụng giấy tái chế" không có sản xuất bột giấy. Bộ Công Thương chỉ biết đến dự án có sản xuất bột giấy khi dự án được khởi công và báo chí đưa tin.
Dự án sản xuất bột giấy này không có trong quy hoạch ngành giấy nhưng cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng không lấy ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước có thầm quyền về quy hoạch. Thậm chí, dự án cũng không có đánh giá tác động môi trường.
Cần xây dựng và ban hành văn bản pháp luật quy định cụ thể việc phân cấp đầu tư cho chính quyền cấp huyện, xã. Cần phân định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan trong việc quản lý hoạt động đầu tư đặc biệt là hoạt động FDI. Việc đưa ra quy định cụ thể, thống nhất và nêu rõ trách nhiệm trong phân cấp đầu tư sẽ tạo thuận lợi cho việc quản lý hoạt động của các cấp từ trung ương đến địa phương, tạo điều kiện phối hợp giữa các cấp, các ngành để thu hút FDI có chất lượng cao.
Nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn FDI để thu hẹp khoảng cách giữa vốn FDI đăng ký và thực hiện, các chính quyền địa phương cần quản lý, hỗ trợ, giải quyết những vấn đề phát sinh của các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Đồng thời, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không có khả năng triển khai thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng không đảm bảo tiến độ, tiến độ kéo dài với chi phí đền bù hợp lý nhằm tạo quỹ đất cho dự án mới.
Cần minh bạch hóa quy trình xây dựng luật và thực thi luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Để tăng tính thực tiễn, tính dân chủ, tính khách quan, tính thống nhất, hiệu quả thực thi cũng như đảm bảo lợi ích của DN và của công chúng thì quá trình xây dựng luật cần có sự tham gia của DN, công chúng để mọi người góp ý hoàn thiện các quy định cũng như tăng cường sự hiểu biết của mọi người về luật để áp dụng luật hiệu quả. Trong quy trình soạn thảo, ban hành văn bản pháp luật cần phát huy trí tuệ của các tầng lớp dân cư, của các nhà khoa học, các bộ, ngành, các cấp, các DN, nhất là những đối tượng điều chỉnh của văn bản pháp luật. Cần tăng cường sử dụng công cụ Internet để công khai các dự thảo luật, chính sách để các DN và công chúng có thể tham gia góp ý. Đồng thời, trang web của các cơ quan quản lý trung ương và địa phương phải cập nhật đầy đủ các luật, văn bản pháp luật và chính sách liên quan đến đầu tư và kinh doanh.
3.3.4. Nhóm giải pháp về cải cách thủ tục hành chính
Cải cách hành chính cần được xác định là việc làm thường xuyên. Khi đã trở thành việc làm thường xuyên thì những phản ứng không thích thay đổi hoặc không thích cải cách sẽ ngày càng giảm, tạo ra sức ép cải cách hành chính trên mọi nội dung. Khi tiến hành cải cách thủ tục hành chính, phải cải cách nội dung về thể chế Nhà nước, bộ máy hành chính, cán bộ làm việc trong bộ máy và tài chính công.
Thứ nhất, phải xây dựng cơ sở pháp lý chuẩn về thủ tục hành chính. Để tránh tình trạng quá nhiều thủ tục hành chính do nhiều cơ quan ban hành không kiểm soát được thì cần xác định rõ cơ quan có thẩm quyền quy định thủ tục hành chính; loại thủ tục hành chính mà một cơ quan có thẩm quyền ban hành; cơ quan thực hiện thủ tục hành chính; các giấy tờ cần thiết để làm một thủ tục hành chính; thời gian tối đa trả lời, có kết quả; lệ phí làm thủ tục hành chính cũng như cơ chế giám sát, khiếu nại khởi kiện. Với quy định rõ cơ quan ban hành từng loại thủ tục để tránh sự chồng chéo về nội dung giữa các thủ tục, giảm số thủ tục không cần thiết. Đồng thời, việc tách biệt giữa cơ quan ban hành và cơ quan giải quyết thủ tục hành chính sẽ đảm bảo tính khách quan, tính hợp lý và tính thực thi các thủ tục hành chính; giảm tình trạng ban hành thủ tục hành chính chỉ nhằm tạo thuận lợi cho cơ quan giải quyết, đẩy khó khăn về DN và người dân, từ đó góp phần giảm hành vi nhũng nhiễu, cửa quyền của công chức, giảm thời gian và chi phí cho DN. Chính các cơ quan giải quyết thủ tục hành chính, DN và người dân là người phát hiện thủ tục bất hợp lý để phản ánh cho cơ quan ban hành.
Tuy nhiên, trong thời gian tới cần tiếp tục rà soát và phân loại thủ tục hành chính, phải loại bỏ thủ tục hành chính không phù hợp, không cần thiết, chồng chéo mâu thuẫn. Để đảm bảo việc rà soát thủ tục hành chính có hiệu quả, cần có cơ quan độc lập thực hiện rà soát văn bản do các bộ, ngành, địa phương ban hành. Nếu để các cơ quan ban hành (các bộ, ngành, địa phương) tự rà soát thì số lượng thủ tục hành chính bị loại bỏ sẽ rất ít.
Khi phân loại thủ tục hành chính cần căn cứ vào tính hợp lý vì thủ tục hợp lý mới có thể quản lý tốt xã hội, đem lại lợi ích cho xã hội và thúc đẩy sự phát triển.
Những thủ tục không hợp lý dù hợp pháp hay không hợp pháp đều cần loại bỏ ngay, những thủ tục hợp lý nhưng không hợp pháp thì cần kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành. Còn thủ tục hợp pháp với vài điểm bất hợp lý thì sửa đổi bổ sung.
Thứ hai, xây dựng chính phủ điện tử để giải quyết thủ tục hành chính. Cụ thể:
Xây dựng hệ thống mạng kết nối từ Trung ương đến địa phương, thiết lập hệ thống xử lý công việc hành chính trong nội bộ các cơ quan hành chính thông qua mạng điện tử.
Cần công bố tất cả các thủ tục hành chính của Việt Nam tại một trang web duy nhất. Trong trang web đó, có phân loại thủ tục hành chính theo cơ quan ban hành, theo cơ quan giải quyết, theo ngành cũng như các tài liệu, thời gian tối đa giải quyết. Trang web duy nhất về thủ tục hành chính cũng như sự phân loại thủ tục hành chính tạo điều kiện cho DN có thể tự tìm hiểu và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ tài liệu. Bên cạnh đó, DN có thể phát hiện những biểu hiện nhũng nhiễu của công chức. Khi xây dựng pháp luật về thủ tục hành chính cần nhấn mạnh rằng: nếu hết thời gian tối đa giải quyết thì thủ tục hành chính coi như chấp nhận. Do đó, khi DN và dân đến giải quyết thủ tục hành chính cần có giấy xác nhận đã gặp và nội dung yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính, DN cần giữ lại giấy để nhận kết quả trả lời. Ngược lại, trong trường hợp hết hạn không có kết quả thì coi thủ tục hành chính đã giải quyết xong.
Cần công khai hoá vấn đề xử lý thủ tục hành chính của DN trên mạng, công chức có trách nhiệm trả lời trực tiếp ý kiến, kiến nghị qua mạng internet làm DN quan tâm hơn đến hoạt động của cơ quan nhà nước.
Từng bước tiến tới việc giải quyết thủ tục hành chính và trả lời thông qua mạng, hạn chế sự tiếp xúc giữa DN và công chức, giảm thời gian chi phí của DN và tệ nạn quan liêu tham nhũng.
Trong quá trình xây dựng chính phủ điện tử, cần có kế hoạch cụ thể, khi nào hoàn thành và mức độ hoàn thành đến đâu. Trong lúc xây dựng chính phủ điện tử chưa hoàn thành thì cần ghi rõ ngay tại cổng cơ quan các loại thủ tục cơ quan