Mô hình tập đoàn kinh tế Việt Nam - Hiện trạng và xu hướng phát triển trong thời gian tới - 11

CPH cần lựa chọn nhà đầu tư chiến lược theo hướng tìm kiếm các đối tác có kinh nghiệm, có tiềm lực tài chính và không giới hạn quốc tịch.

- Thứ năm: Minh bạch hoá các thông tin liên quan, nhất là thị trường về vốn và tài sản. Việc tiếp cận với các số liệu cơ bản nêu trên hiện nay rất khó khăn và không cập nhật không chỉ với giới nghiên cứu mà cả đối với cơ quan quản lý nhà nước và nhà đầu tư. Trước mắt, các tập đoàn cần công bố thông tin trên trang thông tin điện tử (website) chính thức của mình và sau đó là những thông cáo chính thức truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, để một mặt tăng cường thông tin phân phối, mức độ giám sát của những người quan tâm, mặt khác cung cấp thông tin đầy đủ (trước hết là cáo bạch tài chính) nhằm thu hút các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Song song với quá trình này là áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế thay vì các chuẩn mực kế toán hiện nay.

- Thứ sáu: Nâng cao năng lực quản trị của mỗi doanh nghiệp thành viên cũng như toàn tập đoàn. Với quy mô ngày càng lớn, không ngừng mở rộng lĩnh vực hoạt động và thị trường, các tập đoàn thí điểm cần áp dụng phương pháp quản trị hiện đại dựa trên cơ sở khoa học với những quy định cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi bộ phận trong tổ chức thay vì quản trị truyền thống như hiện nay (kết hợp giữa quản trị mệnh lệnh hành chính và quản trị theo sự thuận tiện dựa trên niềm tin cá nhân và quyền lực tổ chức). Nâng cao năng lực quản trị không phải là việc áp dụng các bộ tiêu chuẩn như ISO hay các chứng chỉ chất lượng mà ngược lại, các tiêu chuẩn hay chứng chỉ nêu trên là kết quả của phương pháp quản trị hiện đại. Vì vậy, nâng cao năng lực quản trị trước hết cần thay đổi về tư duy, về phong cách làm việc, cần xây dựng quy chế hoạt động nội bộ và cơ cấu tổ chức khoa học cho mỗi khâu, mỗi bộ phận trong quy trình sản xuất và mỗi mắt xích trong cơ cấu tổ chức.

- Thứ bảy: Xây dựng mối quan hệ giữa đội ngũ quản lý cấp cao. Các TĐKT cần lưu ý đến mối quan hệ này bởi HĐQT hiện nay chỉ là những “đại diện” và họ được bổ nhiệm theo một quy trình gần giống với bổ nhiệm công chức.

Xây dựng và nâng cao vai trò của giám đốc tài chính. Các tập đoàn thí điểm hiện nay chỉ có kế toán trưởng, chưa có giám đốc tài chính. Nếu như kế toán trưởng chủ yếu thực hiện nghiệp vụ thì giám đốc tài chính cần có tầm

nhìn, chiến lược, đưa ra các phương án đầu tư, lựa chọn lĩnh vực đầu tư chiến lược...Sự thành công của các tập đoàn hàng đầu cho thấy vai trò rất quan trọng của giám đốc tài chính bên cạnh giám đốc điều hành và HĐQT. Hiện tại, thị trường nhân lực cấp cao có đủ đội ngũ giám đốc tài chính, có thể đảm đương được các yêu cầu của các tập đoàn hiện nay nhưng nguồn nhân lực này chủ yếu làm việc cho các tập đoàn nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam. Để có chiến lược tài chính phù hợp với các chiến lược kinh doanh khác, các tập đoàn hiện nay cần có những biện pháp cụ thể để thu hút các nhà quản lý cấp cao này bằng nhiều biện pháp khác nhau như chế độ lương, thưởng...

- Thứ tám: Tuyên truyền, phổ biến bằng nhiều hình thức nhằm thống nhất nhận thức về TĐKT, từ tên gọi, phương thức hình thành đến địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức...Vấn đề không nằm ở tên gọi, các TCT đổi tên thành tập đoàn không đồng nghĩa với việc hoạt động hiệu quả hơn, quy mô lớn hơn, “oai” hơn mà là liệu mô hình mới đã thực sự hoạt động như một tập đoàn hay chưa. Về tên gọi CTM - tập đoàn có thể gây nhầm lẫn giữa tập đoàn theo định nghĩa và tập đoàn tên doanh nghiệp, do đó mỗi tập đoàn cần có những quy định cụ thể việc sử dụng thuật ngữ này trong các trường hợp khác nhau, nhất là các hoạt động liên quan đến yếu tố nước ngoài.

- Thứ chín: Rà soát và giảm bớt các DNNN thành viên giữ cổ phần trên 50% bởi cách thức này một mặt không hấp dẫn các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư chiến lược, mặt khác hình thức tổ chức này hiện nay còn đang có những vướng mắc pháp lý trong quá trình hoạt động. Hơn nữa, nhiều DNNN giữ cổ phần trên 50% không cần thiết, trong khi Nhà nước rất cần vốn để đầu tư phát triển các lĩnh vực khác quan trọng hơn.

- Thứ mười: Đa dạng hoá ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Mặc dù đa dạng hoá kinh doanh là đặc trưng của các tập đoàn truyền thống nhưng trong điều kiện Việt Nam và thực trạng của các tập đoàn đang thí điểm, nếu quá trình đa dạng hoá vượt quá năng lực quản lý và tầm kiểm soát sẽ dẫn đến những rủi ro về tài chính cho mỗi tập đoàn và cho cả nền kinh tế, trong khi đó ngành kinh doanh chính không được đầu tư phát triển (khắc phục tình trạng như điện lực, đầu tư phát triển sang lĩnh vực viến thông nhưng chất lượng

dịch vụ không tốt, trong khi luôn kêu thiếu vốn và liên tục đề xuất tăng giá điện).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

- Thứ mười một: Tổng kết, rút kinh nghiệm về mô hình và kết quả hoạt động. Chính phủ có thể giao cho bộ phận giúp việc (hoặc tổ công tác) theo dõi, đánh giá những ưu, nhược của mô hình. Thay vì những nhận xét, đánh giá chung chung qua các cuộc hội thảo, hội nghị, cần có những nghiên cứu sâu trên từng nội dung theo chuyên đề như vấn đề sở hữu, mối quan hệ CTM - CTC, cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu...Qua từng nội dung, nhóm công tác sẽ tổng hợp, rút ra những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Phương pháp tổng kết cũng cần kết hợp giữa các báo cáo của các tập đoàn và kết quả nghiên cứu, khảo sát độc lập của các chuyên gia để đảm bảo tính khách quan.

3.2.5. Nhóm giải pháp nhằm tạo lập môi trường, điều kiện cho các tập đoàn kinh tế ra đời và phát triển

Mô hình tập đoàn kinh tế Việt Nam - Hiện trạng và xu hướng phát triển trong thời gian tới - 11

- Thứ nhất, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường chính trị xã hội. ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết cho việc tính toán kinh

doanh của các TĐKT. Việc giá cả thay đổi thất thường, tỷ giá tăng mạnh hoặc giảm mạnh sẽ làm cho chủ đầu tư không tính toán được lỗ lãi. Chỉ trong môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, các tập đoàn kinh tế mới có thể tiến hành kinh doanh một cách lành mạnh, thực hiện hạch toán đầy đủ và đảm bảo những kết quả kinh doanh không bị hóp méo do sự biến động của thị trường. Việc ổn định nền kinh tế vĩ mô tránh cho nền kinh tế khỏi những khủng hoảng dẫn đến tàn phá nền kinh tế, tạo ra sự tin tưởng của các nhà kinh doanh vào tương lai. Để thực hiện điều đó, Nhà nước cần chú trọng đến những nội dung sau:

- Gia tăng tiết kiệm tiêu dùng để đầu tư cho phát triển.

- Duy trì sự cân đối giữa thu và chi ngân sách Nhà nước nhằm kiểm soát lạm phát.

- Duy trì sự cân đối trong cán cân thương mại bằng một tỷ giá hối đoái hợp lý.

- Bảo đảm sự cân đối giữa tích lũy và đầu tư, tránh sự lệ thuộc vào nước ngoài.

- Đẩy lùi các tệ nạn tiêu cực như: nạn quan liêu, tham nhũng, buôn lậu và gian lận thương mại.

Sự ổn định về chính trị - xã hội tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong một xã hội ổn định về chính trị, các TĐKT được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu và các loại tài sản khác, do đó họ sẵn sàng đầu tư những khoản tiền lớn và thực hiện các dự án dài hạn. Nhà nước đảm bảo sự ổn định về xã hội có nghĩa là Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng tích cực, cho phép các tổ chức kinh doanh có điều kiện hoạt động có hiệu quả hơn. Những vấn đề xã hội đó bao gồm: vấn đề về dân số, vấn đề việc làm, dân chủ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ các tệ nạn xã hội, đạo đức kinh doanh, bảo vệ môi trường, cung ứng các dịch vụ về y tế, giáo dục và pháp luật. Các giá trị chung của xã hội, các tập tục truyền thống, lối sống của nhân dân, các hệ tư tưởng tôn giáo, vấn đề cơ cấu dân số, thu nhập của dân cư cũng là những yếu tố xã hội có tác động nhiều mặt đến hoạt động của các tổ chức kinh doanh.

- Thứ hai, xây dựng chiến lược và chính sách phát triển kinh tế đồng bộ và nhất quán.

Việc xác định chiến lược tổng thể và chiến lược ngành có tác động quan trọng đến việc xây dựng các TĐKT, đồng thời là cơ sở để các tập đoàn này thực hiện đầu tư phát triển sản xuất. Xây dựng chiến lược ngành cần đặt trong mối quan hệ với chiến lược tổng thể, phục vụ mục tiêu chung, tránh tình trạng biệt lập, tách rời, quá nhiều ngành mũi nhọn...dẫn đến đầu tư phân tán, giảm hiệu quả trong phân bổ nguồn lực. Trong các ngành được xác định là chiến lược, có tiềm lực, có lợi thế cạnh tranh, có hạ tầng kinh tế tốt sẽ khuyến khích hình thành và phát triển các TĐKT nhằm khai thác các thế mạnh trên, tạo nên những trụ cột của ngành và của cả nền kinh tế.

Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách từ tổng thể đến cụ thể cần dựa trên phương pháp khoa học, có cơ sở khoa học, khắc phục tư duy bao cấp theo kiểu năm sau cao hơn năm trước, tránh bệnh thành tích và tư duy chỉ tiêu, đạt chỉ tiêu bằng mọi cách, sau đó để lại những hậu quả khó khắc phục. Các chỉ tiêu có thể công bố chính thức nhưng không phải cách làm như hiện nay: lấy biểu quyết của cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân

dân các cấp), bởi chỉ tiêu phải xây dựng trên các luận cứ khoa học và căn cứ thực tiễn, là công việc của các nhà chiến lược, các chuyên gia hoạch định chính sách, các nhà khoa học, do đó chỉ tiêu không nên dựa vào “nghị quyết” để thực hiện mà chỉ nên là số liệu tham khảo.

Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách cần đảm bảo tính đồng bộ giữa các tổng thể và bộ phận, giữa các ngành khác nhau dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch và ổn định bởi sự ổn định một mặt là căn cứ để các TĐKT xây dựng các chiến lược phát triển cho riêng mình, mặt khác định hướng cho các TĐKT đầu tư, lựa chọn ngành, lĩnh vực phù hợp với mục tiêu và chiến lược của Nhà nước. Nếu chiến lược của tập đoàn phù hợp với chiến lược và hướng ưu tiên của quốc gia thì sẽ nhận được những ưu đãi nhất định như đầu tư, vay vốn...Đảm bảo minh bạch và ổn định trong chiến lược, chính sách đảm bảo cho các TĐKT phát triển, tạo những lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước tác động trở lại nền kinh tế.

- Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế. Hoàn thiện thể chế kinh tế không chỉ có tác động thúc đẩy phát triển TĐKT mà tác động toàn diện đến sự phát triển nói chung. Xây dựng và hoàn thiện thể chế hỗ trợ phát triển các TĐKT trước hết cần tập trung giải quyết các mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền, quan hệ giữa công đoàn và lãnh đạo tập đoàn, về cơ chế uỷ quyền, cơ chế đại diện, cơ chế trách nhiệm, giữa các nhóm lợi ích với nhau...theo hướng quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của các bên, xác định mối quan hệ trong những trường hợp cụ thể.

Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế bằng nhiều biện pháp, trong đó cần tạo lập môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Không quá nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước mà xem nhẹ các thành phần kinh tế khác, cần xác định cụ thể chủ đạo là dẫn dắt, định hướng, mở đường và là điển hình của công nghệ mới, quản lý hiện đại, hiệu quả cao. Sự lớn mạnh của các thành phần kinh tế sẽ tất yếu hình thành các TĐKT ngoài quốc doanh, nói cách khác, Nhà nước chỉ là một cổ đông trong rất nhiều cổ đông khác và tham gia với tư cách là nhà đầu tư. Sự phát triển của các thành phần kinh tế cũng sẽ tạo những liên kết kinh tế bền chặt hơn, những mối quan hệ đan xen - là tiền đề hình thành những tập đoàn trong tương lai. Mặc dù đại

diện cho sức mạnh kinh tế quốc gia nhưng các TĐKT không thể tồn tại và phát triển độc lập, nó cần hợp tác, liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như vậy, sự phát triển mạnh của các khu vực kinh tế ngoài Nhà nước cũng là một yếu tố thúc đẩy hình thành và phát triển các TĐKT.

Thứ tư, phát triển đồng bộ các loại thị trường. loại thị trường: thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường vật tư, thị trường công nghệ...Để tạo điều kiện cho sự hình thành các TĐKT, cần đặc biệt chú trọng đến các thị trường như thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản.

Thứ năm, phát triển kinh tế đối ngoại. Trước mắt, phát triển kinh tế đối ngoại cần thực hiện nghiêm túc những cam kết gia nhập WTO trên từng lĩnh cực cụ thể, với từng đối tác, sau nữa là sửa đồi hệ thống luật lệ phù hợp với định chế của WTO. Trong nền sản xuất quốc tế hóa cao độ và phân công lao động mang tính toàn cầu, các TĐKT Việt Nam không thể tách rời quá trình này. Do đó, Nhà nước cần có những biện pháp và chính sách mang tính hỗ trợ sự hợp tác, liên kết, tạo thuận lợi cho luân chuyển các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, kỹ thuật...Với nền tảng chính sách phù hợp, các TĐKT trong nước và các công ty đa quốc gia sẽ xuất hiện nhu cầu hợp tác, tạo cơ hội cho các tập đoàn của Việt Nam tham gia thị trường thế giới.

Thứ sáu, xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển. Xây dựng và phát triển đồng bộ các kết cấu hạ tầng cứng (như giao thông, thủy lợi, sân bay, bến cảng...) và hạ tầng kinh tế mềm (như thông tin, dịch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm...). Phát triển kết cấu hạ tầng trong giai đoạn hiện nay có thể kết hợp cả hai biện pháp sau:

+ Nhà nước trực tiếp xây dựng các cơ sở hạ tầng thông qua vốn đầu tư từ ngân sách hoặc vốn vay.

+ Nhà nước khuyến khích sự tham gia của tư nhân, của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư lĩnh vực này bằng nhiều hình thức như BOT, BT, BOO...với những quy định cụ thể.

Trong phát triển kết cấu hạ tầng, cần chú trọng đến sự phát triển nhanh của hạ tầng mềm trên thế giới thông qua việc ứng dụng những sản phẩm công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin.

3.2.6. Nhóm giải pháp về chính sách

- Thứ nhất: xây dựng chính sách khuyến khích hợp tác, tạo các kiên kết giữa các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp nhằm tạo tiền đề cho hình thành và phát triển các TĐKT. Xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia, các doanh nghiệp sẽ tự nguyện liên kết để đạt mục tiêu, công việc của Nhà nước không phải xác lập mối quan hệ theo kiểu thu gom, lên danh sách các công ty như trước đây mà hướng vào xây dựng các quy định điều chỉnh các liên kết. Các quy định về liên kết nội bộ TCT, TĐKT và liên kết giữa các thực thể nêu trên với các pháp nhân ngoài tập đoàn.

Ngoài ra cần thúc đẩy quá trình CPH DNNN nói chung và các công ty trong tập đoàn nói riêng. Kiên quyết thực hiện lộ trình CPH 71 TCTNN, TĐKT giai đoạn 2007-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ban hành kèm theo Quyết định số 1729/QĐ-TTg ngày 29/12/2006. Song song với tiến trình CPH, cần quy định tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, khắc phục tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay ít có cơ hội tham gia vào các lĩnh vực tiềm năng như bưu chính viễn thông, ngân hàng.

- Thứ hai: Chính sách tăng cường kiểm soát trong các TĐKT theo hướng áp dụng các biện pháp kiểm soát nội bộ chặt chẽ dựa trên nền tảng quản trị khoa học. Một trong những biện pháp lành mạnh hóa hoạt động của các DNNN, các TCTNN tiến tới xây dựng mô hình tập đoàn cần tăng cường kiểm soát, trong đó có kiểm soát từ bên ngoài và kiểm soát nội bộ công ty.

+ Kiểm soát từ bên ngoài thông qua việc thu hút các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ bầu đại diện của họ tham gia vào HĐQT nhưng họ sẽ có cách kiểm soát từ bên ngoài để không làm giảm giá trị của công ty, không làm mất giá trị nguồn vốn mà họ đã đầu tư.

+ Kiểm soát nội bộ công ty có thể được tiến hành bằng việc thuê các cơ quan kiểm toán độc lập báo cáo kết quả định kỳ về tình hình hoạt động của mỗi doanh nghiệp thành viên cũng như toàn tập đoàn. Trong trường hợp tập đoàn đa sở hữu, kiểm toán độc lập có thể báo cáo với cơ quan chính quyền, cơ

quan quản lý vốn, HĐQT hoặc các nhà đầu tư nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính. Mặt khác chủ SHNN tại CTM kiểm soát thông qua việc hoàn thành kế hoạch được phê duyệt của các bộ phận, các đơn vị thành viên. Các bộ phận xây dựng kế hoạch, trình đại diện chủ sở hữu phê duyệt. Sau khi được phê duyệt, các đơn vị phải bảo đảm thực hiện các nội dung đã xây dựng và kết quả hoạt động sẽ được tổng hợp vào các năm tài khóa.

- Thứ ba: Về chính sách đầu tư, tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến đầu tư ra bên ngoài của các tập đoàn (ngoài tập đoàn, ngoài nước). Khuyến khích các mối liên kết giữa các tập đoàn với nhau, giữa tập đoàn với các công ty độc lập, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong điều kiện hiện nay, mỗi tập đoàn, dù có quy mô lớn nhưng rất cần hệ thống doanh nghiệp vệ tinh nhằm tăng cường phân công, chuyên môn hóa, đồng thời xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy các chính sách thúc đẩy các mối quan hệ nêu trên một mặt thúc đẩy phát triển của bản thân các tập đoàn, mặt khác góp phần phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên các chính sách cần chú ý đến giới hạn việc đa dạng hóa ngành nghề, lĩnh vực hoạt động. Mặc dù chủ trương phát triển tập đoàn theo hướng đa ngành, có ngành kinh doanh chính nhưng trong điều kiện hiện nay, cả về quy mô vốn, kinh nghiệm thương trường, năng lực quản trị của các tập đoàn chưa cho phép mở rộng quy mô, lĩnh vực với bất kỳ giá nào. Việc mở rộng quy mô, ngành nghề, lĩnh vực mới cần được mỗi tập đoàn tính toán, cân nhắc và chủ sở hữu cần có quy định cụ thể, rõ ràng.

- Thứ tư: Kiểm soát độc quyền. Một trong những lo ngại lớn nhất của các nhà thực thi chính sách là kiểm soát độc quyền trong các TĐKT. Để kiểm soát độc quyền trong mô hình này, cần thực hiện song song hai nội dung :

+ Thúc đẩy cạnh tranh. Thúc đẩy cạnh tranh bằng nhiều biện pháp khác nhau như xây dựng cơ chế hỗ trợ cho các tập đoàn tư nhân phát triển, đa dạng hóa sở hữu trong mỗi tập đoàn, quy định cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các lĩnh vực đã thành lập TĐKT. Cần tách riêng hạ tầng trong các ngành độc quyền ra khỏi tập đoàn, thành lập một công ty quản lý phần hạ tầng như trục trong lĩnh vực viên thông. Điều này sẽ thu hút các thành phần kinh

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí