Mô hình tập đoàn kinh tế Việt Nam - Hiện trạng và xu hướng phát triển trong thời gian tới - 2


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ‌


1.1. Khái niệm về tập đoàn kinh tế

Mặc dù xuất hiện từ những năm 50 của thế kỉ XX nhưng khái niệm tập đoàn kinh tế cho đến nay vẫn là nội dung gây nhiều tranh luận.

Xét từ góc độ pháp lý: Tập đoàn là tên gọi để chỉ một nhóm công ty kết nối với nhau bằng vốn hay bằng quyền biểu quyết. Mỗi công ty trong tập đoàn là một pháp nhân độc lập, tức là có quyền đi kiện và bị kiện, có tài sản để được thực hiện quyền đó. Tập đoàn không phải là một khái niệm pháp lý vì trong luật không có khái niệm trách nhiệm tập thể. Giả sử khởi tố một tập đoàn ra toà thì sẽ không có ai trong nhóm công ty kia đứng ra nhận giấy triệu tập [3, tr11-12].

Có thể khẳng định TĐKT không phải là thuật ngữ pháp lý mà chỉ là thuật ngữ dùng để nhận diện một tổ hợp kinh doanh, vì chưa có doanh nghiệp nào đăng ký địa vị pháp lý của mình với tư cách là một tập đoàn. Hiện nay cũng chưa có một nghiên cứu chính thức những doanh nghiệp nào được coi là TĐKT, tiêu chí chủ yếu là dựa vào đặc điểm của chúng. Cũng vì thế mà trên thế giới hiện nay vẫn chưa có số liệu thống kê hiện có bao nhiêu TĐKT. Bản thân các nhà kinh tế trong nhiều trường hợp xem xét một công ty có phải TĐKT hay không cũng còn nhiều ý kiến chưa thống nhất.

Trong một văn bản chung của Uỷ ban kinh tế và mậu dịch Nhà nước và Uỷ ban cải cách cơ cấu Nhà nước với tiêu đề “Quy định tạm thời về việc thành lập và quản lý các TĐDN” được đưa ra vào tháng 4 năm 1995, Trung Quốc lại cho rằng TĐDN được xem như một tổ hợp kinh doanh tập hợp các doanh nghiệp có liên quan với nhau bởi công ty mẹ (CTM). Công ty mẹ như một hạt nhân trong tập đoàn, các công ty mẹ và các doanh nghiệp có liên quan khác đều là pháp nhân. Đối với những công ty trực thuộc hoặc những đơn vị không phải là pháp nhân sẽ không phải là các thành viên độc lập của tập đoàn. Cho đến nay, dù còn nhiều định nghĩa khác nhau nhưng quan niệm chung về tập đoàn của Trung Quốc có thể được hiểu đây là một tổ chức kinh tế bao gồm các pháp nhân có quan hệ với nhau theo cách này hoặc cách khác. Các

quan hệ đó có thể là quan hệ đầu tư, quan hệ hợp tác hay quan hệ nhân sự với các cấp độ khác nhau như chặt chẽ, lỏng lẻo hay nửa chặt chẽ.

Theo một công trình nghiên cứu của Công ty Ernst& Young (4, tr15) không có khái niệm duy nhất cho TĐKT. Mỗi quốc gia có một định nghĩa khác nhau dẫn đến có nhiều cách gọi khác nhau đối với thực thể kinh doanh này. Chẳng hạn ở các quốc gia Mỹ Latinh được gọi là Grupes, ở ấn Độ là Business house, ở Hàn Quốc là Chaebol, Nhật là Zaibatsu, phương tây là conglomerate.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Ơ Việt Nam, hiện vẫn chưa có định nghĩa chính xác về TĐKT mà thực chất xung quanh vấn đề này vẫn còn rất nhiều tranh cãi.

Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa: TĐKT là tổ hợp các công ty hoạt động trong một ngành hoặc những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hoặc nhiều nước, tiềm lực kinh tế - tài chính mạnh, cơ cấu phức tạp vừa kinh doanh vừa liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận. Nó trở thành hình thức phổ biến, có vai trò chi phối và tác động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế ở nhiều nước trong giai đoạn hiện nay [30].

Mô hình tập đoàn kinh tế Việt Nam - Hiện trạng và xu hướng phát triển trong thời gian tới - 2

Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 thì tập đoàn kinh tế được xếp là một thành phần trong nhóm công ty, cụ thể như sau:

"Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm công ty bao gồm các hình thức: Công ty mẹ - công ty con. Tập đoàn kinh tế. Các hình thức khác." [24, tr.218]

Như vậy, mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất về tập đoàn kinh tế nhưng tựu chung lại có thể thấy TĐKT là một hình thức tổ chức chứa đựng trong nó những pháp nhân độc lập. Theo quy định pháp lý của nhiều quốc gia và xuất phát từ khái niệm có thể thấy, bản thân TĐKT không có tư cách pháp nhân mà chỉ là một thuật ngữ, một khái niệm dùng để nhận diện một mô hình kinh doanh chứa đựng trong đó các pháp nhân độc lập có mối quan hệ, liên kết đa dạng.

Trong các mối quan hệ giữa các thành viên trong tập đoàn, quan hệ sở hữu đầu tư vốn là chủ yếu. Tuy vậy, quan hệ chi phối trong tập đoàn không

chỉ giới hạn ở vốn mà còn bao hàm cả công nghệ, thị trường, thương hiệu...Ngoài các quan hệ này, các thành viên còn quan hệ với nhau trên cơ sở hợp đồng, về thị trường, về khoa học công nghệ...Liên kết công ty mẹ - công ty con (CTM-CTC) trong các tập đoàn là tương đối bởi các quan hệ đầu tư đan xen (đầu tư ngang, chéo, ngược) qua đó chúng có thể chi phối lẫn nhau. Theo nghĩa hẹp, quan niệm về TĐKT có thể là: TĐKT là tổ hợp các pháp nhân với liên kết vốn là chủ yếu.

1.2. Đặc điểm của tập đoàn kinh tế

Thực tế cho thấy, khái niệm, mô hình của các TĐKT rất đa dạng, do đó khó có thể lượng hoá các tiêu chí của tập đoàn. Để làm rõ mô hình TĐKT, có thể khái quát thông qua các đặc điểm của chúng. Những đặc điểm vừa phải chỉ rõ những biểu hiện bên ngoài, vừa phải khắc hoạ những liên kết cơ bản bên trong các TĐKT.

Thứ nhất, tập đoàn không có tư cách pháp nhân, cơ cấu tổ chức phức tạp:

Luật Doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam quan niệm TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn. Trên thế giới, luật công ty của các quốc gia cũng không sử dụng thuật ngữ “firm”, “enterprise group”, “business group” hay “group” mà chỉ đăng ký là “công ty - company”. Như vậy, TĐKT không có tư cách pháp nhân mà nó là một tổ hợp kinh doanh chứa đựng trong đó nhiều công ty có tư cách pháp nhân. Do đó, ngoài những quan hệ về vốn, thị trường, công nghệ...các công ty thành viên trong tập đoàn bình đẳng trước pháp luật, được thành lập và đăng ký theo quy định của pháp luật, được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật có liên quan.

Cơ cấu tổ chức của TĐKT khá đa dạng, không có khuôn mẫu thống nhất. Cơ cấu tổ chức được xây dựng trên nền tảng văn hoá, đặc điểm ngành nghề kinh doanh, phong cách quản lý, chiến lược xây dựng và phát triển của mỗi tập đoàn. Nhìn chung, cơ cấu tập đoàn thường có một CTM và các CTC, trong đó CTM thường đảm nhiệm các chức năng như phát triển thị trường, ứng dụng công nghệ mới, điều phối toàn tập đoàn vận động đến mục tiêu đã định sẵn thông qua chiến lược chung, qua tỷ lệ góp vốn hay những quan hệ khác. Các CTC hoạt động độc lập với CTM, quan hệ với CTM thông qua đầu tư vốn, công nghệ, thị trường. Các CTC hoạt động độc lập trước pháp luật, có

thể đầu tư vào nhau, thậm chí CTC có thể đầu tư ngược vào CTM. Mối quan hệ giữa CTM và CTC tùy thuộc từng mô hình tập đoàn. Thông thường, các TĐKT thường được tổ chức theo 3 dạng cơ cấu: (1) Cơ cấu tổ chức hình tháp: đỉnh tháp là trung tâm quyền lực, điều hành mọi hoạt động của tập đoàn, sự phát triển kéo dài theo nhánh (mở rộng đáy hình tháp) nhưng đảm bảo trật tự từ trên xuống; (2) Cơ cấu tổ chức phân cấp: Các quan hệ thường được phân định và giới hạn theo cấp quản lý như cấp 1 chỉ quản lý cấp 2, cấp 2 chỉ quản lý cấp 3, cấp 1 không can thiệp, quản lý cấp 3; (3) Cơ cấu tổ chức mạng lưới: Các quan hệ đan xen, ban đầu là một trung tâm, phát triển theo sơ đồ mạng lưới, sau đó mỗi nhân tố trong mạng lưới này có thể phát triển thành một trung tâm độc lập với đầy đủ các quan hệ như trong mạng lưới ban đầu.

Cơ cấu điển hình của một tập đoàn bao gồm: CTM nằm ở trung tâm, đóng vai trò điều hành chung, có ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển mỗi tập đoàn. Các thành viên trong tập đoàn gồm 3 loại: Chặt chẽ, lỏng lẻo và liên kết. Thành viên chặt chẽ là những doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với CTM về vốn, lợi ích, sản xuất kinh doanh...; thành viên bán chặt chẽ là những doanh nghiệp có quan hệ lợi ích nhất định, tham gia một phần vào hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn; thành viên lỏng lẻo là các doanh nghiệp có quan hệ hợp đồng ổn định, lâu dài với CTM.

Thứ hai, quan hệ sở hữu hỗn hợp, phức tạp và mang tính xã hội hoá cao: Tập đoàn kinh tế tồn tại ở nhiều hình thức sở hữu khác nhau: sở hữu

Nhà nước (SHNN), gia đình, cổ phần...Nhìn chung, hầu hết các TĐKT trên thế giới là sở hữu hỗn hợp. Sở hữu hỗn hợp cho phép các TĐKT phát huy khả năng huy động vốn, linh hoạt trong đầu tư, phân tán rủi ro, tăng năng lực cạnh tranh. Mặc dù trong cơ cấu tập đoàn có nhiều chủ sở hữu nhưng thường tồn tại một chủ sở hữu lớn, đóng vai trò CTM, có quyền lực chi phối các công ty thành viên. Tính chất đa sở hữu của các tập đoàn phản ánh quá trình phát triển của mô hình kinh doanh này khi mà quy mô sản xuất lớn đòi hỏi lượng vốn khổng lồ. Chế độ cổ phần ra đời khắc phục được những hạn chế về quy mô vốn thông qua việc huy động trên thị trường chứng khoán. Ngày nay, sở hữu nhiều chủ diễn ra theo xu hướng tăng số người có cổ phần trong tập đoàn và giảm tỷ trọng sở hữu của từng thành viên trên tổng giá trị, do đó tập đoàn

không còn là sở hữu của một cá nhân hay một quốc gia nữa mà là sở hữu quốc tế, có quốc tịch ở một quốc gia nhất định. Cùng với quá trình đó, các quan hệ pháp lý của các chủ sở hữu cũng thay đổi. Người công nhân với tư cách người làm thuê, giờ đây đã trở thành những cổ đông đồng sở hữu. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sức ép cạnh tranh trên thị trường, các công ty không ngừng mở rộng quy mô hoạt động, tăng quy mô vốn bằng nhiều cách, trong đó chủ yếu là thu hút thêm vốn xã hội. Như vậy, sở hữu hỗn hợp trong các tập đoàn kéo theo sự thay đổi địa vị pháp lý của người lao động về sở hữu. Tuy vậy, sự tham gia của người lao động - những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất của mỗi tập đoàn thường chiếm tỷ trọng sở hữu cổ phần không lớn trong tổng vốn kinh doanh. Song song với việc thay đổi địa vị pháp lý về sở hữu của người lao động là việc sở hữu hỗn hợp được xã hội hoá, quốc tế hoá thông qua việc phát hành cổ phiếu ra thị trường.

Thứ ba,liên kết vốn mang tính phổ biến, chi phối các liên kết khác:

Đặc trưng nổi bật của các TĐKT là bao gồm nhiều hình thức liên kết, trong đó liên kết về vốn mang tính phổ biến. Các bên tham gia liên kết do nhu cầu tự thân là chính. Các bên tham gia chỉ thực hiện liên kết khi nào mối quan hệ đó mang lại lợi ích cho chính mình. Quyền hạn của các bên tham gia liên kết tuỳ thuộc vào tính chất của chính các mối quan hệ liên kết hoặc mức độ đóng góp của mỗi bên. Trường hợp công ty mẹ (CTM) đầu tư, góp vốn ở các công ty con (CTC) hoặc giữa các công ty với nhau thì quyền hạn và trách nhiệm được quy định bởi tỷ lệ góp vốn. Mối quan hệ đó có thể là chi phối, góp vốn với tư cách cổ đông thông thường và mối liên kết được duy trì hay chấm dứt bằng việc công ty thực hiện đầu tư tiếp tục duy trì hay rút vốn. Trong quan hệ CTM - CTC, quyền và mức độ chi phối của CTM với CTC nhận đầu tư vốn được quy định trong điều lệ của CTC nhưng hầu hết các CTM nắm giữ quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của CTC. Quyền lợi của CTM được đảm bảo bằng phần lợi nhuận thu được thông qua tỷ lệ vốn góp. Ngoài ra, các tập đoàn còn có mối liên kết với các doanh nghiệp khác thông qua vốn góp của CTM với tỷ lệ chưa đủ mức chi phối (cổ đông thông thường)

hoặc tạo những liên kết ngoài vốn với các doanh nghiệp độc lập, tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh như gia công sản phẩm, phân phối, đại lý...

Thứ tư, vốn, doanh thu, lao động thường có quy mô lớn:

Quy mô của TĐKT có nhiều khác biệt tuỳ thuộc ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, thời điểm khác nhau và quốc gia khác nhau. Tuy chưa thống nhất tiêu chí phân định quy mô vốn, doanh thu, lao động nhưng nói đến TĐKT là ám chỉ một tổ hợp kinh doanh có quy mô vốn lớn, thậm chí lớn hơn cả tổng sản phẩm quốc dân của một quốc gia.

Một điểm đáng lưu ý khi xác định quy mô vốn của một doanh nghiệp lớn, của một TĐKT là cơ cấu hợp thành giá trị. Ngoài vốn cố định, vốn lưu động, vốn nhân lực...còn một bộ phận quan trọng là giá trị thương hiệu; ở một số tập đoàn, giá trị thương hiệu chiếm trên 50% tổng giá trị thị trường nhưng lại không nằm trong sổ sách của tập đoàn. Năm 2005, giá trị thị trường của 5 TĐKT tiêu biểu đạt 1.060,35 tỷ USD, trong đó Coca - Cola có giá trị 105,5 tỷ USD, Microsoft là 272,46 tỷ USD, IBM là 121,3 tỷ USD, con số này với General Electric (GE) và Intel lần lượt là 391,6 tỷ USD và 169,46 tỷ USD [17]. Năm 2006, tổng giá trị của Coca - Cola đạt 103 tỷ USD, của Pepsi đạt 105,4 tỷ USD. Giai đoạn 2001 - 2005, doanh thu của PepsiCo tăng 70%, riêng quý II năm 2006, tập đoàn này tăng trưởng 13% so với cùng kỳ năm trước và đạt lợi nhuận ở mức kỷ lục với gần 1,36 tỷ USD [22, tr.3].

Một số đặc điểm dễ nhận thấy của TĐKT là doanh thu lớn. Nhiều tập đoàn với quy mô kinh doanh toàn cầu, chi nhánh ở hàng trăm quốc gia nên doanh thu khổng lồ, chẳng hạn tập đoàn Exxon Mobil, doanh thu năm 2006 lên tới 339,983 tỷ USD, tập đoàn Wal-Mart Stores có tổng doanh thu năm 2006 đặt 315,654 tỷ USD, tập đoàn PepsiCo chỉ trong 6 tháng đầu năm 2006, doanh thu đạt gần 16 tỷ USD, trong đó lợi nhuận lên đến 2,4 tỷ USD...Trong tốp 500 công ty hàng đầu dựa trên doanh thu năm 2006 được tạp chí Fortune bình chọn, tập đoàn Nike có doanh thu thấp nhất, đứng thứ 500 cũng đạt doanh thu lên tới 13,739 tỷ USD [25]. Trong bối cảnh kinh doanh hiện đại, hầu hết các tập đoàn đều kinh doanh đa ngành, có mặt ở nhiều quốc gia với rất nhiều sản phẩm hàng hoá khác nhau. Chính điều này đã đem lại doanh thu khổng lồ cho các TĐKT.

Riêng về tiêu chí lợi nhuận, một số nghiên cứu cho rằng tiêu chí lợi nhuận lớn là một đặc điểm cơ bản của tập đoàn bởi quy mô hoạt động rộng, tiềm lực vốn lớn, kinh doanh đa ngành...Tuy nhiên không nên dùng tiêu chí lợi nhuận trong ngắn hạn (1-3 năm) bởi trong nền kinh tế thị trường, chuyện thua lỗ là bình thường và một tập đoàn có lợi nhuận âm trong vài ba năm cũng chưa nói lên điều gì, thậm chí đó còn có thể là chiến lược trong kinh doanh. Chẳng hạn tập đoàn hùng mạnh Pemex và tập đoàn Vodafone năm 2006 cũng thua lỗ với các con số tương ứng là 7 triệu USD và 39,092 triệu USD nhưng vẫn xếp hạng khá cao với thứ tự tương ứng là 40 và 66 trong tổng số 500 công ty hàng đầu thế giới [25]. Thậm chí có tập đoàn hai năm liên tiếp thua lỗ như Vodafone: năm 2005 thua lỗ 13,910 triệu USD, năm 2006 tiếp tục lỗ 39,092 triệu USD nhưng có tên trong danh sách. Mặc dù lợi nhuận không phải là tiêu chí đặc trưng của các tập đoàn nhưng ngoài những con số cá biệt, hầu hết các tập đoàn đều có lợi nhuận rất lớn với tốc độ tăng trưởng ngoạn mục, đồng thời nó làm nên sức mạnh, vị thế của mỗi tập đoàn trong một môi trường cạnh tranh toàn cầu.

Lực lượng lao động đông đảo về số lượng, trình độ cao cũng là một đặc điểm của tập đoàn. Về số lượng, theo công bố của Fortune (2006), tập đoàn FedEx có 212.241 lao động, tập đoàn Intel có 48.655 lao động, tập đoàn Starbucks có 91.056 lao động [25] hay tập đoàn P&G với nhiều sản phẩm nổi tiếng ở Việt Nam có trên 100.00 lao động [21, tr.15]. Lực lượng lao động của các tập đoàn không giới hạn trong phạm vi quốc gia, lãnh thổ mà phân bố ở khắp nơi trên thế giới. Thông thường, các tập đoàn đầu tư ở đâu sẽ tuyển dụng nhân lực ở đó, đồng thời có chính sách thu hút chất xám khắp nơi trên thế giới. Microsoft, Coca-Cola, PepsiCo...là ví dụ tiêu biểu về tính đa sắc tộc, đa quốc tịch, đa ngôn ngữ, nhiều màu da của đội ngũ lao động và cán bộ quản lý trong cơ cấu tập đoàn. Về chất lượng, mặc dù đội ngũ lao động phân bố khắp nơi nhưng nhìn chung, trình độ khá đồng đều thông qua quy trình tuyển dụng chặt chẽ, đào tạo và đào tạo lại rất chặt chẽ của mỗi tập đoàn. Tính chất quốc tế hoá lao động là một điểm đáng chú ý trong tất cả các tập đoàn hiện nay. Đội ngũ cán bộ quản lý trong các tập đoàn là những nhân vật xuất sắc, có ảnh

hưởng to lớn không chỉ đến sự lớn mạnh của bản thân mỗi tập đoàn mà còn tác động đến nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội.

Thứ năm, các tập đoàn kinh tế đều kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực:

Trước đòi hỏi của thị trường và sự phát triển của nền kinh tế, các loại hình kinh doanh trong tập đoàn ngày càng trở nên phong phú, đa dạng. Chiến lược sản phẩm và hướng đầu tư của tập đoàn cũng dần được mở rộng. Tập đoàn kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực nhưng không tuỳ tiện mà dựa trên mối quan hệ kinh tế - kỹ thuật giữa các ngành. ở mỗi ngành đều có định hướng ngành chủ đạo, lĩnh vực đầu tư mũi nhọn với những sản phẩm đặc trưng của tập đoàn. Hiện nay, hầu hết các tập đoàn đều kinh doanh đa ngành nghề, đa lĩnh vực xoay quanh một hoặc một số ít các công nghệ chủ chốt là để phân tán rủi ro, mạo hiểm vào các mặt hàng, các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, bảo đảm cho hoạt động của tập đoàn luôn được an toàn và hiệu quả, đồng thời tận dụng được cơ sở vật chất và khả năng của tập đoàn.‌

Xu hướng chung là các tổ chức tài chính, ngân hàng và nghiên cứu ứng dụng ngày càng được chú ý hơn vì đó là đòn bẩy cho sự phát triển của tập đoàn. Như vậy, ngoài các công ty sản xuất, một số đơn vị hợp thành tồn tại khá phổ biến trong các tập đoàn là các đơn vị kinh doanh vốn (cho thuê tài chính hoặc các hình thức khác), doanh nghiệp bảo hiểm, các cơ sở nghiên cứu (có tập đoàn có tới một trung tâm nghiên cứu, trong đó có cả cơ sở nghiên cứu chiến lược), các công ty thương mại. Một số tập đoàn có nhu cầu vận tải đã xây dựng cho mình một năng lực vận tải khá lớn vừa phục vụ cho mình vừa phục vụ thị trường.

1.3. Phân loại TĐKT

Để phân loại các TĐKT người ta thường dựa vào các căn cứ sau:

1.3.1. Căn cứ theo biểu hiện của liên kết :

a. Tập đoàn liên kết những công ty cùng ngành: Ví dụ như Cartel, Syndicate, Trust, Keiretsu...hay còn gọi là liên kết ngang - sự kết hợp các công ty hoạt động trong cùng một ngành sản xuất kinh doanh, nhất là trong những ngành có mức độ cạnh tranh cao và những doanh nghiệp có ưu thế sẽ nắm vai trò chủ đạo. Các doanh nghiệp thoả hiệp với nhau để ấn định giá cả, chia sẻ thị trường hoặc định mức sản lượng để hạn chế cạnh tranh và tăng lợi

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí