nhuận, ở mức cao hơn các doanh nghiệp sẽ mua lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác đang là đối thủ cạnh tranh. Hiện nay, hình thức này không còn phổ biến trong các nước tư bản phát triển. Một mặt, vì nhu cầu của thị trường hết sức đa dạng, phong phú và biến đổi nhanh chóng nên với hình thức này khó đem lại hiệu quả cao. Mặt khác, do nguồn vốn tập trung vào một ngành hàng nên thường có rủi ro lớn. Cuối cùng, do sự ngăn cấm, hạn chế của Chính phủ các nước vì nó tạo độc quyền, ngăn cản cạnh tranh.
b. Tập đoàn liên kết giữa các doanh nghiệp không cùng ngành: Đó là liên kết giữa các công ty trong cùng một dây chuyền công nghệ sản xuất mà ở đó mỗi công ty đảm nhận một bộ phận hoặc một số công đoạn nào đó. Trong tập đoàn dạng này sự liên kết đa dạng ở nhiều ngành nghề khác nhau nhưng có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Sự liên kết này thường dẫn đến sự phát triển ngành nghề theo chiều sâu, tạo điều kiện để các tập đoàn củng cố vị thế cạnh tranh, nâng cao chất lượng quản lý, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp hữu hiệu hơn. Hiện nay, loại hình tập đoàn này vẫn còn phổ biến với tên gọi như Concern, Conglomerate, Chaebol...
Các tập đoàn này chỉ phát triển và hoạt động có hiệu quả khi có đủ các điều kiện cần thiết về môi trường, khoa học-công nghệ và trình độ quản lý, đặc biệt phải có thị trường chứng khoán phát triển, có hệ thống thông tin toàn cầu và khả năng xử lý tổng hợp các thông tin về thị trường, đầu tư. Do vậy, các nước mới phát triển chỉ có thể phát triển các tập đoàn chủ yếu ở lĩnh vực sản xuất về thương mại.
c. Tập đoàn liên kết hỗn hợp: Liên kết giữa các doanh nghiệp không cùng hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh, không có mối liên hệ với nhau về quy trình sản xuất hay cung ứng sản phẩm nhằm bổ sung lợi thế cho nhau. Trên thực tế hiện nay, ngày càng xuất hiện nhiều sự kết hợp của các kiểu liên kết ngang và dọc, nó bao gồm nhiều thực thể kinh doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Từ đó hình thành các kiểu liên kết đa ngành, đa lĩnh vực hết sức phong phú. Ngày nay, một TĐKT mạnh thường có cơ cấu kinh doanh gồm nhiều ngành nghề, kể cả các ngành không liên quan với nhau. Có thể thấy mô hình tập đoàn này đang được ưa chuộng và trở thành xu hướng chính hiện nay. Cơ cấu của nó thường gồm một
ngân hàng hoặc một công ty tài chính lớn, một công ty thương mại và các công ty sản xuất công nghiệp.
1.3.2. Căn cứ theo tính chất sở hữu :
Nhiều tập đoàn tư bản lớn ngày nay có nguồn gốc từ những công ty sở hữu gia đình. Từ sở hữu của từng tư bản cá biệt chúng chuyển dần thành sở hữu tập thể các nhà tư bản độc quyền. Nói chung chúng vẫn mang sắc thái của sở hữu tư nhân nhưng lại gắn bó rất chặt chẽ với Chính phủ tư bản. Thứ hai, sự phát triển của chúng phụ thuộc chặt chẽ vào các chính sách kinh tế của các Chính phủ này. Thứ ba, các Chính phủ cũng phải dựa vào các TĐKT này như những lực lượng vật chất quan trọng, đảm bảo khả năng cạnh tranh và sức mạnh kinh tế của nước đó. Hiện nay, hình thức hỗn hợp dưới dạng công ty cổ phần là một hình thức được ưa chuộng vì nó đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, đồng thời nó cũng phản ánh được lợi ích của nhiều bên tham gia trong tập đoàn đó.
1.3.3. Căn cứ theo tên gọi của tiến trình phát triển
Trong quá trình phát triển các TĐKT có các hình thức gắn với tên gọi chủ yếu sau:
Một là, Cartel:
Có thể bạn quan tâm!
- Mô hình tập đoàn kinh tế Việt Nam - Hiện trạng và xu hướng phát triển trong thời gian tới - 1
- Mô hình tập đoàn kinh tế Việt Nam - Hiện trạng và xu hướng phát triển trong thời gian tới - 2
- Kinh Nghiệm Quốc Tế Về Xây Dựng Và Phát Triển Tập Đoàn Kinh Tế
- Thực Trạng Phát Triển Mô Hình Tập Đoàn Kinh Tế Ở Việt Nam
- Các Tct Tính Theo Ngành Nghề, Lĩnh Vực ( Đến 1998)
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Đây là loại hình tập đoàn của các công ty trong một ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Các công ty này có mức độ sản xuất hoặc thương mại dịch vụ giống nhau thường xuyên cạnh tranh với nhau nhưng không thắng nổi nhau, cuối cùng đi đến ký kết hợp đồng với nhau hoặc thoả thuận kinh kế nhằm thống nhất về giá cả, phân chia thị trường tiêu thụ, nguyên liệu, thống nhất về chuẩn mực, mẫu mã, kiểu loại, kích cỡ sản phẩm, dịch vụ nhằm mục đích hạn chế cạnh tranh giữa các thành viên. Trong Cartel, các doanh nghiệp thành viên vẫn giữ tính độc lập về mặt pháp lý, về kinh tế được điều hành bằng hợp đồng kinh tế.
Hai là, Syndicate :
Thực chất đây là dạng đặc biệt của Cartel. Điểm khác biệt căn bản so với Cartel là trong tập đoàn dạng Syndicate có một văn phòng thương mại chung được thành lập do một ban quản trị chung điều hành và tất cả các công ty phải tiêu thụ hàng hoá của họ qua kênh của văn phòng này. Như vậy các
công ty trong Syndicate vẫn giữ nguyên tính độc lập về sản xuất nhưng hoàn toàn mất tính độc lập về thương mại. Tính liên kết của dạng tập đoàn này được thực hiện ở khâu tiêu thụ sản phẩm.
Ba là, Trust :
Là một hình thức TĐKT không chỉ có liên kết ở khâu tiêu thụ như Syndictate mà còn liên kết ở khâu sản xuất. Trust bao gồm nhiều doanh nghiệp công nghiệp do một ban quản trị thống nhất điều khiển. Khác với Cartel và Syndicate, các doanh nghiệp thành viên trong Trust đều bị mất quyền độc lập về sản xuất và thương mại. Các nhà đầu tư tham gia trong Trust đều là các cổ đông .Việc thành lập Trust nhằm chiếm nguồn nguyên liệu và khu vực đầu tư để thu lợi nhuận độc quyền cao.
Bốn là, Consortium:
Đây là một trong những hình thức của các tổ chức độc quyền ngân hàng, được thành lập nhằm mục đích chia nhau mua trái khoán trong và ngoài nước hoặc tiến hành công việc buôn bán nào đó. Đứng đầu Consortium thường là ngân hàng lớn có vai trò điều hành toàn bộ hoạt động của tổ chức này. Consortium gắn bó rất chặt chẽ với các Concern.
Năm là, Concern:
Đây là hình thức tập đoàn phổ biến nhất hiện nay. Concern không có tư cách pháp nhân, các công ty thành viên trong Concern vẫn giữ nguyên tính độc lập về mặt pháp lý. Mối quan hệ giữa các công ty thành viên trong Concern dựa trên cơ sở những thoả thuận về lợi ích chung. Đó là những thoả thuận về phát minh sáng chế, nghiên cứu khoa học công nghệ, hợp tác sản xuất kinh doanh chặt chẽ và có hệ thống tài chính chung. Trong loại hình này người ta thành lập công ty mẹ điều hành hoạt động của tập đoàn. Công ty này điều hành các hoạt động tài chính, không quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực chất đây là công ty cổ phần nắm giữ phần vốn đóng góp của các công ty thành viên. Thế mạnh của loại hình tập đoàn này là tạo ra một thế lực tài chính lớn, phát triển kinh doanh và gây ảnh hưởng lớn đến chính trị-xã hội nhằm đảm bảo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh của tập đoàn.
Sáu là, Conglomerate:
Đây là loại tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực. Các công ty thành viên ít có mối quan hệ công nghệ sản xuất gần gũi với nhau, thậm chí không có mối quan hệ nào về mặt công nghệ sản xuất. Loại hình này hình thành bằng cách thu hút cổ phần của những doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất, đặc biệt là các doanh nghiệp đang có tốc độ phát triển cao, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về mặt tài chính. Trong Conglomerate không có ngành nghề nào là chủ chốt, chúng được hình thành bằng cách thu hút cổ phần của những công ty đang ở vào giai đoạn phát triển cao. Thông qua hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường, cơ cấu sản xuất của Conglomerate thường chuyển hướng tập trung vào những ngành nghề có lợi nhuận cao. Việc thôn tính dần các công ty có lãi suất cao làm cho cơ cấu ngành nghề của tập đoàn thay đổi nhanh chóng. Đặc điểm cơ bản của hình thức Tập đoàn kinh tế này là huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán và hoạt động của nó chủ yếu nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát tài chính. Do đó, Conglomerate có mối quan hệ rất chặt chẽ với ngân hàng.
Bảy là, Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia:
Trong những thập kỷ gần đây, thời đại tư bản tài chính, thế lực tư bản độc quyền tăng lên, xu hướng thừa tư bản trở lên phổ biến, tất yếu hình thành con đường xuất khẩu tư bản ra nước ngoài tìm kiếm lợi nhuân. Việc hợp nhất các doanh nghiệp đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia, dẫn đến hình thành các Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia. Đó là sản phẩm của sự liên minh giữa các nhà tư bản có thế lực nhất, các tập đoàn này có quy mô mang tầm cỡ quốc tế, có một hệ thống chi nhánh dày đặc ở nước ngoài với mục đích nâng cao tỷ suất lợi nhuận thông qua bành trướng quốc tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ, xu hướng toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng, tác động của cạnh tranh toàn cầu, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận là nguyên nhân dẫn đến hình thành các Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia. Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia được hiểu là những công ty hoạt động trong một lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trên lãnh thổ nhiều quốc gia. Do đó, cơ cấu tổ chức gồm hai bộ phận cơ bản đó là “Công ty mẹ” thuộc sở hữu của các nhà tư bản nước có công ty mẹ và một hệ thống các công ty
chi nhánh thuộc sở hữu công ty mẹ hoặc hỗn hợp với công ty nước chủ nhà. “Công ty mẹ” có vai trò là trung tâm phối hợp hoạt động của các công ty chi nhánh dưới sự kiểm soát của nó, định hướng sự phát triển cho các công ty này và theo dõi thường xuyên kết quả hoạt động của nó.
Nhìn chung, Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia được hình thành và vận hành theo nhiều cơ chế khác nhau, song dù hình thức nào thì mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty chi nhánh là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau chủ yếu về tài chính, công nghệ, kĩ thuật. Các thành viên trong Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia đều là các công ty độc lập có tư cách pháp nhân, có lợi ích riêng, liên kết với nhau nhằm đáp ứng một cách linh hoạt trước sự phát triển của sản xuất kinh doanh. Các công ty chi nhánh ở nước ngoài dù tồn tại dưới hình thức này, hình thức khác, sở hữu 100% vốn nước ngoài, hỗn hợp, hay góp vốn cổ phần, thì các chi nhánh đó thực chất là những bộ phận của một tổ hợp, quyền kiểm soát chủ yếu về đầu tư, sản xuất kinh doanh vẫn thuộc về những nhà tư bản nước có “Công ty mẹ”.
1.4. Điều kiện và con đường hình thành các TĐKT
Là tổ hợp quy mô lớn, TĐKT là kết quả của tích tụ tập trung sản xuất và các liên kết giữa các pháp nhân. Vì vậy TĐKT được hình thành và phát triển trong những điều kiện nhất định.
Một là, điều kiện khách quan:
Trình độ xã hội hoá sản xuất: Lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định đòi hỏi các quan hệ sản xuất phải được xã hội hoá. Xã hội hoá sản xuất một mặt phản ánh sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất, đồng thời tạo điều kiện để mỗi doanh nghiệp đa dạng hoá sở hữu, mở rộng phạm vi và lĩnh vực kinh doanh, tăng cường hợp tác dưới nhiều hình thức. Sản xuất được xã hội hoá mạnh mẽ thúc đẩy cạnh tranh ngày càng gay gắt. Cạnh tranh có tác động trở lại, làm cho xã hội hoá sản xuất đạt trình độ cao hơn. Với các điều kiện đó, mỗi doanh nghiệp cần tạo lập các liên kết kinh tế, nâng cao năng lực...từng bước đáp ứng yêu cầu về vốn, về tập trung sản xuất, về thị trường..., đồng thời đòi hỏi lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp, từ đó thúc đẩy hình thành các TĐKT.
Liên kết kinh tế: Liên kết kinh tế là quá trình vận động khách quan, tuỳ thuộc vào trình độ, phạm vi của phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất, vào sự phát triển các quan hệ kinh tế của mỗi doanh nghiệp, vào lợi ích của các bên tham gia. Có thể nói, TĐKT thực chất là tổ hợp của các liên kết kinh tế và tính chất, trình độ, cấp độ của các liên kết phản ánh trình độ các quan hệ sản xuất. Mỗi cấp độ liên kết thường có mô hình kinh doanh tương ứng. Như vậy, các liên kết kinh tế là tiền đề để hình thành các TĐKT, các TĐKT ra đời thúc đẩy các liên kết kinh tế phát triển lên trình độ, cấp độ và các hình thức biểu hiện cao hơn.
Trình độ phát triển của kinh tế thị trường: Nền kinh tế thị trường phải đạt đến một trình độ nhất định, các quy luật cơ bản của thị trường như cung cầu, cạnh tranh, giá cả...phải được tôn trọng, các nguồn lực được phân bổ tối ưu dựa trên nguyên tắc thị trường, đảm bảo tính thống nhất, thông suốt của thị trường trong nước, có sự liên kết chặt chẽ giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế, từng bước hoàn thiện và đồng bộ hoá các loại thị trường, trước hết là những thị trường chủ yếu như vốn, lao động, khoa học công nghệ, bất động sản...Thị trường phát triển đến một mức độ nhất định vừa là điều kiện hình thành các TĐKT vừa là yếu tố tiền đề để chúng từng bước hoàn thiện và phát triển.
Hai là, điều kiện từ bản thân các doanh nghiệp:
Với con đường phát triển truyền thống, các doanh nghiệp cần đạt đến trình độ nhất định về vốn, thị phần, năng lực sản xuất, trình độ quản lý. Khi đã đạt đến trình độ cần thiết, điều kiện cần thiết để hình thành các TĐKT là việc thiết lập các liên kết giữa công ty mẹ với doanh nghiệp thành viên. Quá trình thiết lập liên kết bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng phải đảm bảo những nguyên tắc nhất định như tự nguyện, cùng có lợi,...Đối với các quốc gia lựa chọn con đường hình thành TĐKT với sự can thiệp mạnh của chính phủ, các điều kiện bên trong của mỗi tập đoàn cần được tính toán kỹ lưỡng bao gồm quy mô vốn của công ty mẹ và cả của tập đoàn: trình độ tích tụ tập trung sản xuất của đối tượng lựa chọn, tính chặt chẽ trong các liên kết, số lượng công ty con, tư cách pháp nhân của các công ty con...Ngoài ra các điều kiện về năng lực bộ máy quản lý, trình độ quản lý, lĩnh vực kinh doanh mũi
nhọn, trình độ khoa học công nghệ...cũng là những nội dung quan trọng cần phải xem xét khi hình thành TĐKT.
Ba là, điều kiện về phía chính phủ:
Chính phủ phải đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ môi và môi trường chính trị - xã hội nhằm tạo lập nền tảng cần thiết cho các TĐKT ra đời và hoạt động. Bên cạnh đó, chính phủ cần ban hành các quy định và chính sách liên quan đến hình thành và phát triển các tập đoàn trong từng giai đoạn khác nhau. Ngoài ra, lựa chọn cơ chế quản lý phù hợp vừa đảm bảo thực hiện chức năng quản lý của chủ thể, vừa thúc đẩy các tập đoàn phát triển cũng là điều kiện cần thiết cho mô hình này ra đời và hoạt động. Đối với các quốc gia lựa chọn con đường hình thành TĐKT trên cơ sở tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước, lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn sẽ xây dựng cần được lựa chọn kỹ lưỡng, phù hợp với chiến lược phát triển quốc gia, phát huy được lợi thế của ngành, phù hợp với nguyên tắc và thông lệ quốc tế.
Với những điều kiện nhất định, khi xuất hiện một doanh nghiệp hạt nhân với vai trò công ty mẹ và các doanh nghiệp xung quanh nó có mối quan hệ dưới nhiều hình thức thì TĐKT ra đời. Khi công ty mẹ duy trì được các mối quan hệ với các doanh nghiệp bao quanh nó bằng các hình thức góp vốn, liên kết, hợp đồng...nghĩa là tập đoàn đang tồn tại. Khi công ty mẹ chấm dứt các quan hệ nêu trên, trong tổ hợp không xuất hiện công ty mẹ khác thì đồng nghĩa với việc phá sản hay giải thể của các tập đoàn.
Như vậy, TĐKT là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, đáp ứng sự phát triển của kinh tế thế giới. Sự hình thành các TĐKT là kết quả của quá trình tích tụ và tập trung vốn, tái đầu tư, mở rộng sản xuất...Đây là cách thức mà hầu hết các tập đoàn lớn trên thế giới hiện nay ở các nước phát triển đã trải qua. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào tích tụ, tập trung vốn sẽ rất ít cơ hội cho các doanh nghiệp và các quốc gia đang phát triển, do đó, ngoài cách thức truyền thống, việc chính phủ tổ chức những doanh nghiệp quy mô lớn, nắm giữ những lĩnh vực trọng yếu được nhiều quốc gia lựa chọn nhằm rút ngắn thời gian hình thành các TĐKT có năng lực cạnh tranh, quy mô vốn lớn, phạm vi hoạt động rộng. Có thể khái quát 2 con đường chủ yếu hình thành các TĐKT:
- TĐKT được hình thành bằng con đường truyền thống: Thông qua tích tụ, tập trung vốn, lĩnh vực hoạt động, tăng vốn, mở rộng phạm vi...từng bước chiếm lĩnh thị trường. Nhu cầu liên kết trên nguyên tắc tự nguyện, đảm bảo lợi ích của mỗi doanh nghiệp trước áp lực cạnh tranh hoặc yêu cầu đầu tư lớn mà bản thân mỗi thành viên đơn lẻ không đủ năng lực thực hiện cũng là nhân tố thúc đẩy TĐKT ra đời. Nhìn chung TĐKT được hình thành theo con đường truyền thống bằng cách thức sau:
(1) Các doanh nghiệp đang hoạt động kết hợp lại với nhau bằng cách bán cổ phần cho một công ty mới thành lập (thường gọi là công ty nắm vốn). Công ty này sau khi đã thanh toán cho các doanh nghiệp đã bán cổ phần cho mình, trở thành công ty nắm giữ phần vốn của từng doanh nghiệp, tham gia điều hành đối với mỗi doanh nghiệp ở mức độ khác nhau. Công ty nắm vốn trở thành công ty mẹ, các công ty bán vốn trở thành công ty con, việc góp vốn, trả tiền thực hiện trên văn bản, do các chủ nhân của các công ty con quyết định với nhau.
(2) Một doanh nghiệp có quy mô lớn, tiềm lực mạnh về vốn công nghệ, thực hiện đầu tư vốn để thành lập các công ty con nhằm chiếm lĩnh thị trường, cử người vào các công ty con để tham gia điều hành theo số vốn của mình. Cách thức này còn được gọi là chia tách hoặc là chia nhỏ công ty.
(3) Các cổ đông đầu tư thành lập công ty mẹ ban đầu, công ty mẹ này tiếp tục đầu tư các công ty con.
Trong các cách thức hình thành các TĐKT nêu trên, các biện pháp như hợp nhất, sáp nhập, thôn tính, mua lại...nhằm tăng quy mô, mở rộng ngành nghề, tăng năng lực cạnh tranh, tìm kiếm thị trường mới...được cả CTM và các CTC thực hiện đem lại lợi ích cho các bên tham gia.
- TĐKT được hình thành trên cơ sở đầu tư của Chính phủ: Chính phủ đầu tư vốn và thành lập các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, hoạt động trong một số lĩnh vực trọng yếu hoặc độc quyền Nhà nước. Sau một quá trình hoạt động, Chính phủ cơ cấu lại khu vực này và mô hình TĐKT là một trong những lựa chọn. Cách thức này cần có giai đoạn chuyển tiếp cần thiết, từ việc đa dạng hóa sở hữu, tạo lập các mối liên kết đầu tư, tổ chức lại theo mô hình mới đến cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy các TĐKT hình thành và phát triển.