Nội Dung Kế Toán Cp, Dt Và Kqkd Trong Dnsx Trên Phương Diện Ktqt


vẹn một nghĩa vụ phải thực hiện qua việc chuyển giao hàng hóa đã cam kết tới khách hàng ( khách hàng nắm được quyền kiểm soát hàng hóa)” [69].

Doanh nghiệp ghi nhận DT khi doanh nghiệp hoàn thành trọn vẹn một nghĩa vụ phải thực hiện qua việc chuyển giao sản phẩm, hàng hóa theo cam kết tới khách hàng. Sản phẩm, hàng hóa được xác định là đã chuyển giao khi khách hàng có được quyền kiểm soát nó. Quyền kiểm soát là khả năng quyết định việc sử dụng, khả năng thu được đáng kể mọi lợi ích còn lại. Quyền kiểm soát bao gồm cả khả năng hạn chế các đối tượng doanh nghiệp khác định đoạt và thu được lợi ích.

- Về đo lường DT

Theo IFRS 15, “Khi một nghĩa vụ được thực hiện hoàn thành, doanh nghiệp phải xác định DT tương ứng với phần giá trị của giao dịch được phân bổ cho nghĩa vụ đó”[69].

Giá trị của giao dịch là giá trị của khoản thanh toán được xác định cho một hợp đồng mà doanh nghiệp có quyền nhận được khi thực hiện chuyển giao sản phẩm, hàng hóa đã cam kết với khách hàng, không bao gồm các khoản thu hộ bên thứ ba.

DT được đo lường và xác định “tương ứng với phần giá trị của giao dịch được phân bổ cho nghĩa vụ thực hiện đó”. Doanh nghiệp thường phân bổ giá trị giao dịch cho từng nghĩa vụ được thực hiện trong hợp đồng trên cơ sở giá bán đơn lẻ (không áp dụng cho các hợp đồng chỉ có duy nhất một nghĩa vụ phải thực hiện). Giá bán đơn lẻ là mức giá mà doanh nghiệp sẽ bán sản phẩm, hàng hóa một cách tách biệt cho khách hàng. Nếu như giá bán đơn lẻ không thể nhận diện được thì doanh nghiệp phải thực hiện ước tính cho giá bán đơn lẻ. IFRS 15 không đưa ra một phương pháp cụ thể nhưng doanh nghiệp có thể áp dụng các phương pháp bao gồm: phương pháp tiếp cận đánh giá thị trường được điều chỉnh, phương pháp tiếp cận qua mức CP dự kiến cộng với lợi nhuận phù hợp, phương pháp tiếp cận theo mức giá trị còn lại.

1.2.2.2.2.Kế toán ghi nhận DT trong DNSX


Theo IFRS 15, kế toán ghi nhận doanh thu để phản ánh nghiệp vụ chuyển giao sản phẩm, hàng hóa tới khách hàng theo cam kết với giá trị tương ứng của khoản thanh toán kỳ vọng nhận được từ giao dịch trao đổi sản phẩm, hàng hóa cần vận dụng theo các bước:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

Bước 1: Xác định hợp đồng với khách hàng

Hợp đồng là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ buộc phải thực hiện. Việc thực thi các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng được bảo vệ bởi pháp luật. Hợp đồng với khách hàng phải thỏa mãn các điều kiện:

Hoàn thiện kế toán chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp sản xuất xi măng thuộc Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam - 7

- Các bên tham gia chấp thuận với bản hợp đồng (bằng văn bản, lời nói hoặc bất kỳ hình thức nào phù hợp với thông lệ kinh doanh) và cam kết thực hiện các nghĩa vụ của mình.

- Doanh nghiệp có thể xác định được quyền lợi của từng bên tham gia hợp đồng liên quan đến sản phẩm, hàng hóa được chuyển giao.

- Doanh nghiệp có thể xác định được các điều khoản thanh toán cho sản phẩm, hàng hóa được chuyển giao.

- Hợp đồng có bản chất thương mại (tính rủi ro, thời điểm phát sinh hay giá trị các dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp được dự kiến sẽ thay đổi do kết quả của hợp đồng)

- Doanh nghiệp chắc chắn sẽ thu được khoản thanh toán khi chuyển giao sản phẩm, hàng hóa cho khách hàng. Khi đánh giá khả năng thu hồi giá trị của khoản mục nhận về, doanh nghiệp chỉ xem xét khả năng và ý định của khách hàng trong việc thanh toán giá trị của khoản mục nhận về khi đến hạn. Giá trị của khoản mục nhận về mà doanh nghiệp có quyền hưởng có thể thấp hơn mức giá nêu trong hợp đồng nếu khoản mục nhận về là khoản biến đổi vì doanh nghiệp có thể dành cho khách hàng một khoản ưu đãi giá.

Bước 2: Xác định nghĩa vụ phải thực hiện trong hợp đồng

Nghĩa vụ phải thực hiện trong hợp đồng chính là những cam kết về chuyển giao sản phẩm, hàng hóa tới khách hàng. Tại thời điểm thiết lập hợp


đồng với khách hàng, doanh nghiệp đã phải xác định mỗi nghĩa vụ phải thực hiện với khách hàng là một cam kết chuyển giao một loại sản phẩm, hàng hóa có tính tách biệt hoặc một loạt nhóm các sản phẩm, hàng hóa có tính tách biệt, có nhiều đặc điểm tương đồng và hình thức chuyển giao giống nhau. Một hợp đồng với khách hàng thông thường sẽ chỉ rõ loại sản phẩm, hàng hóa mà doanh nghiệp cam kết chuyển giao với khách hàng. Tuy nhiên, các nghĩa vụ phải thực hiện trong hợp đồng có thể không chỉ hạn chế cho riêng hàng hóa phản ánh trong hợp đồng, nó có thể bao gồm cả các cam kết phát sinh từ thông lệ kinh doanh của doanh nghiệp, chính sách được công bố nếu như tại thời điểm bắt đầu tham gia hợp đồng, các cam kết phát sinh này giúp cho khách hàng chắc chắn hơn vào khả năng doanh nghiệp chuyển giao hàng hóa cho mình.

Tại thời điểm thiết lập hợp đồng với khách hàng, doanh nghiệp cũng phải xác định mỗi nghĩa vụ phải thực hiện hoàn thành tại một thời điểm nhất định hay trong một khoảng thời gian. Thông thường đối với cam kết giao sản phẩm, hàng hóa tới khách hàng một nghĩa vụ hoàn thành tại một thời điểm.

Bước 3: Xác định giá trị của giao dịch

Giá trị của giao dịch có thể là một khoản thanh toán cố định nhận từ khách hàng, nhưng trong một số trường hợp có thể là khoản thanh toán không cố định hoặc khoản thanh toán được biểu hiện dưới dạng phi tiền tệ. Nếu khoản thanh toán được cam kết trong hợp đồng bao gồm khoản không cố định, doanh nghiệp phải ước tính giá trị của khoản thanh toán tới mức giá trị mà doanh nghiệp có thể nhận được bằng một trong hai phương pháp: giá trị kỳ vọng (giá trị có thể thu được dựa trên việc xem xét nhiều hợp đồng có đặc điểm tương tự); giá trị có khả năng cao nhất nhận được (giá trị có khả năng đạt được cao nhất trong khoảng giá trị được xem xét). Nếu các khoản thanh toán biểu hiện dưới dạng phi tiền tệ, doanh nghiệp phải ước tính theo giá trị hợp lý, hoặc nếu không thể ước tính được giá trị hợp lý, doanh nghiệp phải xác định giá trị của khoản thanh toán một cách gián tiếp qua việc tham khảo đơn giá bán lẻ của hàng hóa


được cam kết chuyển giao cho khách hàng hoặc một nhóm khách hàng để đổi lấy quyền được nhận khoản thanh toán.

Bước 4: Phân bổ giá trị của giao dịch cho các nghĩa vụ phải thực hiện

Mục đích của việc phân bổ là để xác định giá trị giao dịch tới từng loại sản phẩm, hàng hóa riêng biệt theo mức giá trị phản ánh được giá trị khoản thanh toán mà doanh nghiệp dự tính nhận được khi chuyển giao sản phẩm, hàng hóa theo cam kết trong hợp đồng.

Bước 5: Ghi nhận DT

Doanh nghiệp ghi nhận DT khi hoàn thành trọn vẹn một nghĩa vụ phải thực hiện, giá trị DT được ghi nhận tương ứng với phần giá trị giao dịch được phân bổ cho nghĩa vụ đã thực hiện hoàn thành.

Trên cơ sở vận dụng các bước để xác định và ghi nhận DT, kế toán DT tổ chức thu nhận, xử lý, ghi chép các thông tin kế toán qua hệ thống các chứng từ, tài khoản và sổ kế toán DT.

Chứng từ kế toán DT

Chứng từ kế toán chủ yếu có liên quan đến giao dịch bán sản phẩm, hàng hóa để ghi nhận DT là Hoá đơn cung cấp thông tin về số lượng hàng bán ra và trị giá hàng bán tương ứng.

Tài khoản và sổ kế toán ghi nhận DT

Cũng giống như kế toán CP, IAS/IFRS không quy định hệ thống tài khoản kế toán hay sổ kế toán tương ứng. Các tài khoản kế toán DT thường được mở để theo dõi và ghi nhận DT theo các hoạt động bán sản phẩm, hàng hóa, cung ứng dịch vụ …Khi sản phẩm được xác định tiêu thụ, kế toán ghi nhận DT bán hàng vào bên Có tài khoản DT bán hàng chi tiết theo mặt hàng, nhóm mặt hàng, thị trường tiêu thụ … Trong kỳ khi phát sinh các khoản giảm DT bán hàng tập hợp qua các tài khoản giảm trừ DT như chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại. Cuối kỳ, toàn bộ các tài khoản DT phát sinh trong kỳ được kết chuyển về tài khoản xác định KQKD.


Có thể khái quát quy trình kế toán ghi nhận DT trên các tài khoản kế toán theo nguyên tắc trên qua Phụ lục 1.2

Sổ kế toán DT được mở để ghi nhận các thông tin DT theo các tài khoản kế toán DT tương ứng. Các thông tin DT thường được theo dõi, ghi chép trên các sổ như Nhật ký chung, Nhật ký bán hàng, Sổ Cái (sổ tổng hợp) và Sổ chi tiết DT tương ứng.

1.2.2.3. Kế toán KQKD trong DNSX

Kế toán KQKD trong DNSX đo lường và xác định theo nguyên tắc cơ sở dồn tích. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là phần chênh lệch giữa DT được hưởng và CP phải gánh chịu được xác định cho một kỳ kế toán trong doanh nghiệp. Việc ghi nhận CP, DT trong doanh nghiệp đều dựa trên cơ sở dồn tích, vì vậy các khoản CP và DT được ghi nhận trong kỳ sẽ được sử dụng để xác định kết quả của kỳ đó “bao gồm cả các CP và DT phát sinh từ việc thay đổi các ước tính kế toán”[14, tr228].

Theo IAS 08, nhiều khoản mục trong BCTC của doanh nghiệp không thể xác định được một cách tin cậy mà chỉ có thể là ước tính kế toán như thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ làm căn cứ tính khấu hao, nghĩa vụ bảo hành, các khoản phải thu khó đòi...Ước tính kế toán cần phải được xem xét lại nếu các căn cứ thay đổi hoặc có thêm thông tin hay kinh nghiệm mới. Các thay đổi ước tính kế toán sẽ được áp dụng phi hồi tố và ghi nhận vào Báo cáo KQKD của kỳ hiện tại và kỳ sau đó (nếu có ảnh hưởng) trừ trường hợp những thay đổi đó dẫn đến thay đổi của tài sản, nợ phải trả hoặc thay đổi khoản mục trong vốn chủ sở hữu. Ví dụ như thay đổi ước tính thời gian sử dụng TSCĐ ảnh hưởng tới CP khấu hao và ảnh hưởng đến KQKD của kỳ hiện tại và kỳ sau đó.

Kế toán xác định KQKD được thực hiện cuối kỳ kế toán trên cơ sở kết chuyển CP, DT sang tài khoản Xác định KQKD. Tài khoản Xác định kết quả như là một bản ghi chép, tổng hợp DT và CP phát sinh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp để tính ra lợi nhuận và có thể mở chi tiết cho từng loại hoạt động


trong doanh nghiệp. Sổ kế toán cũng được mở và theo dõi chi tiết tương ứng với các tài khoản kế toán.

1.2.2.4.Thông tin CP, DT và KQKD trình bày trên BCTC

BCTC cung cấp các chỉ tiêu, số liệu tin cậy để tính ra các chỉ tiêu kinh tế nhằm đánh giá KQKD, thực trạng tài chính, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả của các quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, kiểm tra giám sát tình hình sử dụng vốn và khả năng huy động vốn vào SXKD của doanh nghiệp. Thông qua các thông tin trên BCTC cung cấp để đánh giá tình hình tài chính, KQKD của doanh nghiệp, các chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp đưa ra các quyết định và chính sách đúng đắn, có nên tiếp tục đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, phát triển sản phẩm mới, có nên tiếp tục bán hàng và cho vay nợ..... BCTC là căn cứ để xây dựng các kế hoạch kinh tế – kỹ thuật, tài chính của doanh nghiệp, là căn cứ khoa học để đề ra hệ thống các biện pháp xác thực nhằm tăng cường quản trị doanh nghiệp.

Các thông tin CP, DT và KQKD chủ yếu được trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và được giải trình chi tiết trên Bản thuyết minh BCTC. Các thông tin về DT được trình bày chi tiết trên BCTC phải chi tiết theo từng loại giao dịch, sự kiện bao gồm DT bán hàng, DT cung cấp dịch vụ, …Về thông tin CP, theo Chuẩn mực quốc tế số 1 - Trình bày BCTC (IAS 1) “Doanh nghiệp cần phải trình bày trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hoặc trong phần thuyết minh phần phân loại chi tiết các khoản CP theo tính chất hoặc chức năng” [14, tr231]. Việc phân loại CP theo chức năng sẽ cung cấp thông tin hữu ích hơn cho người sử dụng và trong trường hợp doanh nghiệp “phân loại CP theo chức năng phải cung cấp thông tin bổ sung về CP phân loại theo tính chất vì các thông tin đó hữu ích cho việc dự đoán luồng tiền mặt phát sinh trong tương lai” [14, tr232].

Theo IAS 08, trong trường hợp doanh nghiệp thay đổi chính sách kế toán áp dụng lần đầu mà không có hướng dẫn cụ thể hoặc tự nguyện thay đổi phải áp dụng hồi tố (điều chỉnh số dư đầu kỳ của khoản mục bị ảnh hưởng và các số liệu


so sánh của kỳ trước như đã được áp dụng chính sách kế toán mới) hoặc trong trường hợp xảy ra các sai sót kế toán như sai sót do tính toán, áp dụng sai các chính sách kế toán, bỏ quên, hiểu hoặc diễn giải sai các sự việc và gian lận được phát hiện ở kỳ sau thì sai sót này phải được điều chỉnh vào số liệu so sánh được trình bày trong BCTC của kỳ phát hiện và thực hiện điều chỉnh số dư đầu kỳ của các khoản mục tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của kỳ lấy số liệu so sánh.

1.2.3.Nội dung kế toán CP, DT và KQKD trong DNSX trên phương diện KTQT

“Chức năng quản trị là những hoạt động riêng biệt của quản trị, thể hiện những phương thức tác động của quản trị gia đến các lĩnh vực quản trị trong doanh nghiệp” [49, tr60]. Có nhiều nhà khoa học đã đưa ra các nghiên cứu có tính hệ thống về các chức năng quản trị trong doanh nghiệp. Từ những năm 1916, H.Fayol, nhà khoa học quản trị của Pháp chia chức năng quản trị trong doanh nghiệp thành 5 chức năng: Dự kiến, Tổ chức, Chỉ huy, Phối hợp và Kiểm tra. Năm 1937, hai nhà khoa học L.Gulick và L.Urwich phát triển hệ thống của H.Fayol thành 7 chức năng. Năm 1955, hai nhà khoa học H.Koontz và C.O’Donnell đã quay trở lại với cách phân loại của Fayol và cho đến nay “5 chức năng quản trị của Fayol vẫn giữ được tính khoa học của nó” [49, tr62].

Hệ thống KTQT trong DNSX được thiết lập chủ yếu với mục đích cung cấp thông tin phục vụ cho các nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện các chức năng quản trị: hoạch định, tổ chức, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra đánh giá từ đó đưa ra quyết định. Mối quan hệ giữa quy trình thực hiện KTQT gắn với các chức năng quản trị được thể hiện qua sơ đồ sau:


Hoạch định

Xây dựng định mức, lập dự toán


Thu thập, xử lý, cung cấp thông tin thực hiện

Tổ chức

Phối hợp

Chỉ huy

- Phân tích, so sánh thực hiện với dự toán

- Phân tích mối quan hệ chi phí, khối lượng, lợi nhuận

- Đánh giá trách nhiệm quản lý

Kiểm tra, đánh giá

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa quy trình thực hiện KTQT với các chức

năng quản trị

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)

Hoạch định là chức năng đầu tiên của các nhà quản trị doanh nghiệp. Hoạch định chính là việc xác định các mục tiêu trong tương lai, từ đó xây dựng các chiến lược tổng thể, các kế hoạch hoạt động để đạt được mục tiêu đó. Để thực hiện được các kế hoạch, mục tiêu đề ra, doanh nghiệp cần phải có một nguồn tài chính đảm bảo và công cụ giúp các nhà quản trị thực hiện tốt chức năng của mình là thông qua hệ thống định mức CP và các dự toán.

Tổ chức, chỉ huy, phối hợp giữa các hoạt động, các nguồn lực trong doanh nghiệp để đảm bảo các hoạt động diễn ra theo đúng các chương trình, kế hoạch đã xây dựng. Hệ thống KTQT thông qua quá trình thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin thực hiện về CP, DT, kết quả từ đó cho biết việc sử dụng các nguồn lực, cách thức huy động các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh để nhà quản trị có thể kịp thời điều chỉnh các hoạt động đạt được các mục tiêu đã đề ra.

Kiểm tra, đánh giá là chức năng cuối cùng của nhà quản trị trong doanh nghiệp. Kiểm tra là quá trình đo lường, so sánh kết quả thực tế với những mục tiêu, kế hoạch đã đề ra, từ đó phát hiện, đo lường và xác định nguyên nhân sai lệchđể thực hiện điều chỉnh. KTQT với nội dung phân tích thông tin thực hiện

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 20/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí