công khai, làm cho dư luận cho rằng Tập đoàn được ưu đãi quá mức từ nhà nước, nhà đầu tư nghi ngờ vào năng lực điều hành, quản lý và hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn.
Về quản lý nhà nước đối với Petrolimex
- Mối quan hệ giữa DNNN sau CPH và cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước chưa thật sự rõ ràng và hợp lý.
- Chính sách của Nhà nước trong quá trình CPH và đối với DNNN sau CPH chưa tạo điều kiện đủ thuận lợi để giải quyết các vướng mắc phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN.
- Quản lý nhà nước đối với tài sản trong DNNN sau CPH còn nhiều sơ hở (quy định bảo toàn và hưởng lợi từ vốn góp của Nhà nước tại DNNN; cơ chế xử lý các tài sản mà DNNN sau CPH không muốn kế thừa; một số vấn đề phát sinh trong việc bán cổ phần của CTCP do Nhà nước còn giữ cổ phần chi phối…)
3.4.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
3.4.2.2.1. Những nguyên nhân từ thể chế
Tái cấu trúc quản trị Doanh nghiệp nhà nước đã được quan tâm, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII và Quyết định số 707/2017/QĐ-TTg chính thức xác định "quản trị Doanh nghiệp nhà nước theo thông lệ quốc tế" là một mục tiêu của tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước đến năm 2020 (Trong kế hoạch tái cơ cấu DNNN 2011-2015, tái cơ cấu quản trị DNNN không được coi là mục tiêu, chỉ là giải pháp thực hiện). Tuy nhiên, sự bất cập về thể chế đã tác động đến qua trình này, thể hiện:
Hệ thống luật kinh doanh ở Việt Nam áp dụng chung cho mọi loại hình doanh nghiệp không phân biệt nguồn gốc sở hữu, cơ bản không tạo ra ngoại lệ hay ưu đãi cho Doanh nghiệp nhà nước, là tiền đề để áp đặt Doanh nghiệp nhà nước vào khung khổ quản trị theo thông lệ chung. Tuy vậy, pháp luật về quản trị Doanh nghiệp nhà nước chưa đầy đủ và hoàn thiện. Nhiều văn bản chưa kịp ban hành theo yêu cầu của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp như quy định hướng dẫn về cơ quan đại diện chủ sở hữu, kiểm soát viên, tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước.
Điều lệ của hầu hết các tập đoàn, tổng công ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập cũng chưa được sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của thực tiễn đổi mới, tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Số Lượng Và Chất Lượng Lao Động Của Petrolimex
- Khảo Sát Về Mục Đích Của Cổ Đông Nhà Nước Sau Cổ Phần Hóa
- Đánh Giá Chung Về Mô Hình Quản Lý Doanh Nghiệp Nhà Nước Sau Cổ Phần Hóa Ở Tập Đoàn Xăng Dầu Việt Nam
- Thuận Lợi, Khó Khăn, Cơ Hội Và Thách Thức Đối Với Đổi Mới Mô Hình Quản Lý Dnnn Sau Cph Ở Tập Đoàn Xăng Dầu Việt Nam
- Giải Pháp Đổi Mới Mô Hình Quản Lý Doanh Nghiệp Nhà Nước Sau Cổ Phần Hóa Ở Tập Đoàn Xăng Dầu Việt Nam
- Thay Đổi Hình Thức Hỗ Trợ Của Nhà Nước Đối Với Doanh Nghiệp Nhà Nước Sau Cổ Phần Hóa
Xem toàn bộ 213 trang tài liệu này.
Việc thiếu kỷ luật tài chính, kỷ luật thị trường và những ưu đãi trên thực tế cho Doanh nghiệp nhà nước đang là rào cản để áp đặt Doanh nghiệp nhà nước vào khung khổ quản trị theo thông lệ kinh tế thị trường. Đây là điểm hạn chế đã được nhận diện từ nhiều năm nay, nhưng chưa có dấu hiệu khắc phục, điển hình là tình trạng ưu tiên trong tiếp cận các khoản vay; được hỗ trợ khi gặp khó khăn hoặc nhiều trường hợp khi không trả được nợ thì Nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm trả.
Để quản trị tốt, cần có chính sách sở hữu rõ ràng và hợp lý tại từng Doanh nghiệp nhà nước. Tuy vậy, đến nay chưa có đổi mới về nội dung này. Việc xác định nhiệm vụ hàng năm chủ yếu dưới hình thức phê duyệt kế hoạch đăng ký của doanh nghiệp, chưa thể hiện được trách nhiệm cũng như mong muốn và kỳ vọng của cơ quan chủ sở hữu đối với Doanh nghiệp nhà nước. Mục tiêu trung và dài hạn của chủ sở hữu đối với từng Doanh nghiệp hầu như chưa rõ, thiếu các chỉ tiêu định lượng. Nhiều nhiệm vụ giao cho doanh nghiệp nhà nước không được điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế thị trường, vượt quá khả năng của doanh nghiệp, đồng thời để lại nhiều hệ lụy ảnh hưởng toàn diện đến công tác quản trị doanh nghiệp.
Chưa có quy định cụ thể nào về bộ máy quản trị doanh nghiệp nhà nước một cách đặc thù. Các doanh nghiệp nhà nước hiện nay được tổ chức theo Luật Doanh nghiệp, nhưng về thực chất các Tập đoàn kinh tế nhà nước đã tiến hành cổ phần hóa vẫn chịu sự áp chế của Luật Doanh nghiệp nhà nước, mặc dù Luật này đã hết hiệu lực nhưng chưa thấy động thái từ phía cơ quan lập pháp sớm ban hành trên cơ sở tham mưu từ Chính phủ. Do đó, các Tập đoàn kinh tế Nhà nước hiện nay đang diễn ra tình trạng vừa tái cấu trúc, đổi mới phương pháp, mô hình quản trị doanh nghiệp vừa dè chừng hay thấp thỏm vì không biết được có còn sự thay đổi về mặt thể chế, pháp luật nào nữa không? Đây có thể nói là điểm nghẽn về thể chế gây tác động tiêu cực đến tâm lý của những người thực hiện tại các Tập đoàn kinh tế nhà nước rất lớn.
Chủ trương và pháp luật đã có đổi mới về bộ máy thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII yêu cầu: "Sớm xoá bỏ chức năng đại diện sở hữu của các bộ, Uỷ ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp". Theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ 2015 thì bộ, cơ quan ngang bộ không còn chức năng đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp. Nhưng mãi đến năm 2017, UBQL vốn Nhà nước tại doanh nghiệp mới được thành lập, đến thời điểm này vẫn đang hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ; đang tiến hành tiếp nhận chuyển giao các Tập đoàn kinh tế lớn từ các Bộ, ngành. Sự chậm trễ đó cũng được coi là một trong những tác nhân của thể chế tác động đến mô hình quản lý, tổ chức của các Tập đoàn kinh tế nhà nước.
Thể chế quản lý không phù hợp đã tạo ra tình trạng không rõ ràng về trách nhiệm quản lý, làm cho tài sản nhà nước trong tình trạng không rõ trách nhiệm, tạo cơ hội cho các mối quan hệ lợi ích, trục lợi từ vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, nhất là trong mua sắm tài sản, định giá và thâu tóm cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa, làm thất thoát tài sản trong và sau quá trình cổ phần hóa.
3.4.2.2.2. Những nguyên nhân nội tại trong Tập đoàn
Mô hình phát triển theo chiều rộng không còn phù hợp. Quản lý và điều hành Petrolimex hiện đang gặp phải vấn đề coi trọng vào các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng thay vì phản ánh chất lượng tăng trưởng, việc đa dạng hóa và mở rộng ngành nghề của Tập đoàn sang một số lĩnh vực liên kết với tài chính, ngân hàng…, điều này có thể dẫn đến tình trạng vượt quá năng lực tài chính và khả năng quản lý của Công ty mẹ. Mở rộng kinh doanh là cần thiết nhưng phải dựa trên sự phát triển vững chắc ngành nghề kinh doanh chính, cốt lõi có tính chất đặc thù và tập trung vào sản phẩm chủ lực, mũi nhọn giúp cho tổ chức, quản lý điều hành họp lý, khoa học mới có thể phát huy được lợi thế quy mô. Hiện tại, Petrolimex vẫn đang còn nhiều lĩnh vực dàn trải, cần phải tiến hành thoái vốn một cách triệt để.
Tái cơ cấu Petrolimex chưa toàn diện, chủ yếu tập trung vào sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, các nội dung tái cơ cấu khác chưa được quan
tâm tương xứng. Tái cấu trúc quản trị diễn ra chậm, nếu so sánh với các chuẩn mực của công ty niêm yết hoặc ở mức độ cao hơn là so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế thì quản trị nội bộ tại Tập đoàn chưa có tiến bộ đáng kể, thậm chí thấp hơn so với yêu cầu của pháp luật hiện hành. Quản trị không tốt và những bất cập của cơ chế quản lý làm cho nguồn lực nhà nước tại Tập đoàn chưa được phân bổ, quản lý và sử dụng đúng với quy luật thị trường, là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới tái cơ cấu và đổi mới mô hình quản lý chưa đạt mục tiêu.
Việc cơ cấu lại và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ tại Petrolimex đã có biến chuyển tích cực. Tuy nhiên, các mặt hạn chế lâu nay về trình độ công nghệ, năng suất lao động, sức cạnh tranh chưa được khắc phục và cải thiện trong quá trình tái cơ cấu, đổi mới quản trị Tập đoàn. Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật đã và đang tạo ra các sản phẩm chất lượng thấp và không ổn định, hạn chế khả năng cạnh tranh, làm giảm mức độ đóng góp của Tập đoàn vào nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Cách thức quản lý, điều hành nội bộ của Tập đoàn đang là một khâu yếu và đổi mới chậm. Thiếu công cụ quản trị doanh nghiệp hiện đại dẫn đến chậm hoặc không phát hiện được các vấn đề phát sinh và những thất thoát, tiêu cực trong kinh doanh. Hiệu lực, hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ, ban kiểm soát, kiểm soát viên của Tập đoàn còn thấp, nhiều ban kiểm soát, kiểm soát viên tại một số Công ty con, doanh nghiệp liên kết bị vô hiệu hóa. Tình hình tài chính, quản trị của Tập đoàn tuy đã công khai, minh bạch nhưng vẫn còn hạn chế nhất là trong mua sắm, đầu tư, chi tiêu, công tác cán bộ, giao dịch với người có liên quan.
Hệ thống quản trị nguồn lực doanh nghiệp (ERP) tại Tập đoàn mặc dù đã triển khai, áp dụng, tuy nhiên chưa thực sự hiện đại và đồng bộ đến mức tích hợp được tất cả các hoạt động nghiệp vụ, tin học hóa quản trị doanh nghiệp, việc hợp nhất thông tin trong toàn hệ thống chưa tốt, chưa đảm bảo việc cung cấp chính xác các thông tin quản lý và hệ thống báo cáo quản trị theo tiêu chuẩn cho các ban quản lý, điều hành và chủ sở hữu.
Chế độ đãi ngộ và xử lý trách nhiệm đối với cán bộ quản lý cơ bản vẫn theo nguyên tắc như đối với viên chức nhà nước. Việc ký hợp đồng với tổng giám đốc chuyên nghiệp ở các Tổng công ty trực thuộc 100% vốn do Tập đoàn nắm giữ mới được thí điểm trên ý tưởng, nhưng chưa tiến hành tổ chức, triển khai, thực hiện. Chưa có cơ chế cạnh tranh trong vấn đề tuyển chọn nhân lực cao cấp và cơ chế để thu hút nhân lực chất lượng cao, không tạo được động lực gắn với trách nhiệm, phù hợp với sự vận hành của Tập đoàn theo cơ chế thị trường.
Ngoài những nguyên nhân nêu trên, còn có thể xem xét một nguyên nhân khác đang ngăn cản sự phát triển của Tập đoàn nói chung và quá trình đổi mới, tổ chức, quản lý điều hành tại Petrolimex đó chính là lợi ích nhóm. Mặc dù là một thực tế nhưng không thấy được đề cập trong các báo cáo giám sát của Tập đoàn nói riêng và kiểm tra, giám sát của Nhà nước nói chung. Đây có thể là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng hoạt động chưa đạt hiệu quả xứng với tiềm lực của các Tập đoàn kinh tế nhà nước nói chung và Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam nói riêng. Theo phân tích số liệu kinh doanh của Petrolimex có kết quả tăng trưởng ấn tượng qua hàng năm và đạt được các chỉ tiêu đề ra, tuy nhiên, thực tế đó không phải là sự phát triển đúng tiềm lực của Petrolimex, không phải là sự biến đổi về chất từ nội tại của Tập đoàn, đó mới chỉ là tác động của sự thay đổi của môi trường, của cơ chế, thậm chí cả sự ưu đãi của Nhà nước và cả sự “độc quyền” trong kinh doanh khi dựa vào điểm tựa là thực hiện nhiệm vụ chính trị. Nhìn vào doanh thu và lợi nhuận và cách thức điều hàng giá của Petrolimex thời gian qua cho thấy, sự tăng giá xăng dầu trong nước được cập nhật, điều chỉnh rất nhanh, theo kịp giá xăng dầu thế giới, nhưng sự giảm giá thì không bao giờ theo kịp, độ trễ rất lớn. Câu hỏi đặt ra là số chênh lệch đó có được đưa vào báo cáo tài chính của Tập đoàn, hay số chênh lệch đó bị thất thoát và không được tính vào tài sản của Tập đoàn.
Vấn đề đặt ra trong quá trình tái cấu trúc, đổi mới mô hình tổ chức quản lý và quản trị nội bộ của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam hiện nay là ngoài việc Nhà nước phải ban hành đồng bộ các quy định làm khung pháp lý cho việc hoàn thiện mô hình quản lý, quản trị cho các Tập đoàn nói chung, và cần phải
đổi mới cơ chế quản lý, kiểm soát người đại diện trực tiếp của chủ sở hữu nhà nước tại Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam thông qua Điều lệ về tổ chức và hoạt động chưa đủ mạnh để kiểm soát sự quản lý đó. Thêm nữa, ngay chính cơ chế giám sát trong bên trong Tập đoàn phải đủ mạnh mới có thể thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu quả, minh bạch mới thúc đẩy quá trình đổi mới cách thức quản trị, tái cấu trúc Tập đoàn diễn ra như kỳ vọng.
Chương 4
GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI MÔ HÌNH QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HÓA Ở TẬP ĐOÀN XĂNG DẦU VIỆT NAM
4.1. BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI MÔ HÌNH QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HÓA Ở TẬP ĐOÀN XĂNG DẦU VIỆT NAM
4.1.1. Bối cảnh
4.1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Trong thời gian tới, kinh tế thế giới có những đặc điểm nổi bật, đó là:
(i) Toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ; (ii) Các liên kết kinh tế song phương, khu vực và đa phương tiếp tục được mở rộng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế khu vực và thế giới; (iii) Khoa học - công nghệ ngày càng khẳng định vai trò là một trong những lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng nhất của nền kinh tế thế giới; (iv) Kinh tế thế giới vẫn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn; (v) Mô hình quản trị doanh nghiệp trong kỷ nguyên số đang có những thay đổi về chất.
Các quốc gia có xu hướng đàm phán, tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement - FTA) có phạm vi rộng hơn trước, bao gồm cả các lĩnh vực phi truyền thống như: môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ... (trước đây các FTA chủ yếu liên quan đến lĩnh vực hàng hóa); mức độ cam kết cũng sâu hơn, như phải xóa bỏ gần như 100% thuế nhập khẩu, trong đó trên 90% là xóa bỏ ngay, xóa bỏ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho hàng đã qua sử dụng... Đây là các FTA thế hệ mới. Các FTA kiểu này thường tác động lớn hơn đến thể chế. Vì vậy, nếu được đàm phán phù hợp, các FTA này sẽ góp phần tích cực cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 - thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị - là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất, tạo động lực để doanh
nghiệp nói chung cũng như DNNN phải thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh, đổi mới tư duy về thị trường. Trong phạm vi sản xuất, kinh doanh, cách mạng Công nghiệp 4.0 cho phép mức độ tự do và linh hoạt cao hơn trong quá trình sản xuất, tạo ra các sản phẩm đầu tư được tùy biến cá nhân và sản xuất tại chỗ. Không chỉ sản phẩm mà các dịch vụ cũng sẽ được tạo ra hàng loạt bằng phương pháp công nghiệp. Do đó, cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 là cơ hội để Nhà nước và doanh nghiệp phải đổi mới tư duy, thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh, nhất là tư duy về quản trị,về thị trường. Bối cảnh tác động đến cung cầu xăng dầu của Petrolimex: Năm 2019,
kinh tế thế giới có những khởi sắc hơn với mức tăng trưởng so với những năm trước, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng lại khác biệt giữa các nhóm nước. Nhóm nước phát triển dẫn đầu là Mỹ đang có sự phục hồi nhưng khá chậm phần lớn các nước trong nhóm này vẫn ở trạng thái tăng trưởng không chắc chắn ngoại trừ Mỹ đang dần thể hiện vị thế của mình. Nhóm nước đang phát triển và cận biên dẫn đầu là Trung Quốc thì tình hình phức tạp hơn, đó là tăng trưởng nhanh và có dấu hiệu chững lại như Trung Quốc, Ấn Độ hay tăng trưởng âm nhưng đang tích cực hơn như Nga, Brazil, nhóm nước này đóng góp tích cực vào tăng trưởng toàn cầu. Do đó, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu các khu vực kinh tế lớn có xu hướng tăng. Nhu cầu sử dụng dầu của Mỹ và EU cùng chiều với mức độ tiêu thụ mạnh, khu vực OECD (nhóm quốc gia đang phát triển) cũng tiêu thụ mạnh. Những quốc gia ngoài OECD (Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung Đông, Châu Phi…) có mức tiêu thụ xăng dầu tăng so với những năm trước đây.
Tình hình cung dầu của các khu vực trên thế giới cũng có nhiều biến động. Khối OPEC chiếm sản lượng khai thác xăng dầu không còn lớn trên thế giới, điều này làm giảm khả năng thao túng giá của khối so với những năm trước. Khu vực Trung Đông với thế mạnh chi phí khai thác dầu thấp và trữ lượng dầu cao luôn dẫn đầu về sản lượng khai thác khi so sánh với khu vực còn lại. Tuy nhiên, kể từ năm 2011, khu vực châu Mỹ với đầu tàu là Mỹ đã có sự tăng trưởng vượt bậc và đã có lúc tiến rất gần với sản lượng khai thác của khu vực Trung Đông. Tốc độ tăng trưởng nhanh của sản lượng khai