cánh đồng mẫu tuân thủ quy hoạch hệ thống giao thông thủy lợi nội đồng mà Uỷ ban nhân dân huyện Kiến Xương phê duyệt tháng 6/2012.
Uỷ ban nhân dân xã Vũ Hoà đã tổ chức dồn điền đổi thửa năm 2011. Tỉnh đã huy động và hỗ trợ nguồn vốn nhằm quy hoạch nội đồng, mương máng phục vụ tưới tiêu. Nhằm quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, thuận lợi cho áp dụng cơ giới hoá vào sản xuất (đưa máy gặt, mạ khay, máy cấy, máy cày, bừa, gieo xạ…). Giảm được chi phí sản xuất, giảm sức lao động, tăng năng suất, hạ giá thành; hệ thống tưới tiêu đảm bảo cho cây trồng; tăng vụ sản xuất trong năm, từ đó tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích; hình thành vùng sản xuất chuyên canh, tạo ra lượng sản phẩm hàng hóa tập trung, tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Bên cạnh những kết quả đạt được, mô hình còn một số khó khăn, hạn chế, cụ thể:
Một là: Diện tích ruộng bình quân của hộ thấp. Thái Bình, với 1,8 triệu dân, diện tích nhỏ hẹp bình quân đầu người khoảng 500 m2, những cánh đồng diện tích hàng trăm ha không phải là không có nhưng số hộ quá đông khó tạo sự đồng thuận cao trong quá trình triển khai mô hình. Công tác quy hoạch vùng sản xuất lúa tập trung của Thái Bình vẫn còn manh mún, cho nên vừa khó thực hiện đồng bộ cơ giới hóa và phòng trừ dịch bệnh cây trồng, vừa giảm hiệu quả khi áp dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật. Hạ tầng sản xuất như hệ thống tưới tiêu còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất; hệ thống bảo quản, chế biến, sấy sau thu hoạch gần như chưa có, giao thông nội đồng chưa hoàn thiện, tỷ trọng cơ giới hóa các khâu sản xuất chưa cao. Hầu hết các hộ nông dân ở Thái Bình nói chung và 2 xã Nguyên Xá, Vũ Hòa nói riêng có diện tích trồng lúa nhỏ, manh mún. Đối với xã Nguyên Xá, mô hình chỉ trên dưới 50 ha nhưng có tới 400 hộ nông dân hay xã Vũ Hòa diện tích mô hình là 54,7 ha với 603 hộ. Ông Trần Văn Tuấn, Chủ nhiệm HTX DVNN Vũ Hòa (Kiến Xương) cho biết: 54,7 ha đất canh tác trong mô hình cánh đồng mẫu của xã có tới 603 hộ tham gia, có hộ chưa
đến 1 sào, nên rất khó khăn trong việc thực hiện những hình thức sản xuất mới và sản phẩm làm ra chưa đồng đều để đáp ứng doanh nghiệp thu mua Tính chất manh mún của ruộng đất gây trở ngại cho cơ giới hóa, áp dụng máy móc, công nghệ vào đồng ruộng, khó hình thành nền sản xuất hàng hóa lớn và khó giải quyết lao động dôi dư.
Hai là: Không có công ty lớn chế biến, tiêu thụ sản phẩm, gặp khó khăn trong thu hoạch, bảo quản, chế biến và tiêu thụ. Nguyên nhân do tổng sản lượng nông sản chưa đủ lớn để doanh nghiệp có tiềm lực vào liên kết thu mua, chế biến; doanh nghiệp nhỏ lại không đủ khả năng tài chính để đầu tư sản xuất, thu mua. Không phải vụ thu hoạch nào nông sản cũng được công ty tham gia ký kết tiêu thụ toàn bộ. Tính riêng trên địa bàn xã Nguyên Xá, một số điểm hạn chế của mô hình khi triển khai là hiện nay, toàn xã có 8.000 sào, chia bình quân 1.1 sào/khẩu, năng suất đạt bình quân hơn 2 tạ/sào, 1 vụ thu hoạch 1600 tấn, người dân chỉ sử dụng hết 800-900 tấn, số còn lại được nông dân tiêu thụ nhỏ lẻ như bán lại cho các tư thương với mức giá thấp, như vậy không đảm bảo thu nhập phù hợp với sức lao động của người dân. Mối liên kết 4 nhà, nhất là sự liên kết giữa doanh nghiệp cung ứng vật tư, thu mua nông sản với nông dân chưa được chặt chẽ; nông dân luôn ở thế bị động, bởi không có quyền định giá lúa và hình thức thu mua. Trong toàn tỉnh Thái Bình, những HTX quy vùng sản xuất cung cấp thóc ổn định cho doanh nghiệp từ 100 đến 150 ha chỉ đếm trên đầu ngón tay, còn lại phổ biến đạt từ 30 đến 50 ha một con số quá nhỏ so với hơn 1 triệu tấn thóc nông dân Thái Bình sản xuất mỗi năm[19]. Có thể thấy rò hơn tình hình tiêu thụ nông sản còn nhiều hạn chế trên địa bàn tỉnh Thái Bình thông qua một số tư liệu cụ thể sau: Toàn xã Thái Thành (Thái Thụy) có 437 ha đất canh tác, sản lượng thóc trung bình mỗi vụ đạt từ 2.700 đến 3.000 tấn, trong đó khoảng 30% phục vụ nhu cầu lương thực của người dân[19]. Nhằm giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm, HTX đã ký hợp đồng cấy 30 ha lúa giống cho Công ty CP Giống cây
trồng Thái Bình nhưng tối đa mỗi vụ công ty chỉ tiêu thụ khoảng 200 tấn, lượng còn lại bán ra thị trường, thời gian qua giá lương thực xuống thấp, việc tiêu thụ rất khó khăn nên bà con chưa thực sự yên tâm sản xuất. Bên cạnh đó, người nông dân Thái Bìnhhiện vẫn nặng tư tưởng sản xuất tự cung, tự cấp, chưa có thói quen tìm hiểu và đón đầu thị trường nên đành chấp nhận thực trạng sản phẩm làm ra tiêu thụ bấp bênh, may rủi. Khả năng tiếp cận nguồn vốn, tổ chức sản xuất theo hướng liên kết và những kiến thức cơ bản về pháp luật trong hoạt động kinh tế của người nông dân còn hạn chế. Vì vậy có tình trạng không ít nông dân đã ký hợp đồng rồi nhưng khi thu hoạch giá sản phẩm trên thị trường cao hơn nên tự bán lúa ra ngoài thị trường, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Ngược lại, cũng có doanh nghiệp dù đã ký hợp đồng với nông dân rồi nhưng vì một số lý do đến mùa vụ cũng không mua sản phẩm của nông dân khiến nhiều hộ thất vọng. Cả doanh nghiệp thu mua nông sản và các HTX ở Thái Bình còn gặp khó khăn khi vay vốn đầu tư phát triển sản xuất bởi thiếu các điều kiện: có dự án kinh doanh khả thi, có tài sản thế chấp. Dù được chính quyền địa phương hỗ trợ triển khai mô hình, sản lượng lúa tăng so với sản xuất đại trà nhưng đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp còn bế tắc, không ký kết được hợp đồng với công ty thu mua sản phẩm, nông dân vẫn canh cánh nỗi lo được mùa mất giá. Nông sản bị ép giá vì thương lái mua đi bán lại. Nếu không giải quyết được những vướng mắc này thì sẽ không thể khuyến khích nông dân yên tâm xây dựng cánh đồng mẫu lớn.
Có thể bạn quan tâm!
- Tính Ưu Việt Của Mô Hình Cánh Đồng Mẫu Lớn
- Mô hình cánh đồng mẫu lớn ở nước ta hiện nay - 5
- Một Số Nét Khái Quát Về Chủ Trương Thí Điểm Cánh Đồng Mẫu Lớn Tại Thái Bình
- Có Chính Sách Phù Hợp Giải Quyết Việc Làm Cho Lao Động Dôi Dư Của Các Hộ
- Các Cánh Đồng Mẫu Lớn Cần Tăng Cường Mối Liên Kết Với Các Nhà Khoa Học Để Có Những Loại Giống Lúa Tốt Cho Sản Xuất
- Mô hình cánh đồng mẫu lớn ở nước ta hiện nay - 10
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Ba là: Cán bộ kỹ thuật hỗ trợ cho nông dân tại địa phương còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn; tập quán canh tác của nông dân còn lạc hậu. Là đơn vị làm thành công CĐML ở miền Nam, nhưng khi đưa mô hình này ra Bắc, Cty CP Bảo vệ thực vật An Giang gặp không ít khó khăn. Ông Nguyễn Viết Sáu, Phó Ban điều hành chương trình "Cùng nông dân ra đồng” của công ty cho biết, công ty không đặt nhiều tham vọng làm mô hình khép kín ở Thái Bình, là cung cấp giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, kỹ thuật và bao tiêu đầu ra mà bước đầu,
chỉ mong chuyển giao được quy trình kỹ thuật canh tác, giúp nông dân ghi chép nhật ký đồng ruộng, tạo thói quen sử dụng một loại giống, nâng cao năng suất, giảm các chi phí, công lao động. Nông dân chưa tiếp cận nhiều với quy trình sản xuất lúa theo VietGAP, trình độ nông dân không đồng đều nên việc tiếp thu tiến bộ kỹ thuật bị hạn chế, nhận thức về sản xuất cây trồng an toàn chưa được nâng cao; việc ghi chép nhật ký sản xuất là một yêu cầu quan trọng nhưng chưa được nông dân quan tâm đúng mức. Trong quá trình triển khai, mô hình nhận được sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật của công ty Bảo vệ thực vật An Giang gửi ra và trung tâm khuyến nông Thái Bình, còn cán bộ xã chưa được đào tạo bài bản, chưa đủ trình độ chuyên môn để đảm nhiệm vai trò hướng dẫn nông dân thực hiện dự án. Những hạn chế nói trên đang gây trở ngại cho việc hoàn thiện và nhân rộng mô hình cánh đồng mẫu lớn ở tỉnh Thái Bình.
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ NHÂN RỘNG MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN”
3.1 NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI NHÂN RỘNG MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN”
3.1.1 Những thuận lợi
Phải xuất phát từ tình hình cụ thể của từng vùng để chọn mô hình thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình triển khai, nhất là từ khả năng tiêu thụ nông sản. Ở đồng bằng Nam bộ việc thực hiện mô hình có nhiều thuận lợi hơn so với miền Bắc.
Từ thực tiễn của những cánh đồng mẫu lớn ở An Giang cho thấy những thuận lợi sau:
Một là, có những công ty chế biến, xuất khẩu gạo và các nông sản. Một trong những nguyên nhân quyết định sự thành công của việc triển khai mô hình “cánh đồng mẫu lớn” tại An Giang là có sự tham gia nhiệt tình của Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang. Công ty đã xây dựng một số nhà máy xay sát lúa gạo, có hệ thống sấy, hệ thống băng chuyền, kho chứa đảm bảo các dịch vụ khép kín từ cung cấp các yếu tố đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật canh tác đến hỗ trợ vận chuyển, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm cho các nông hộ.
Hai là, bình quân diện tích đất của mỗi hộ lớn, ở đồng bằng Nam bộ bình quân đạt từ 0,5 đến 2,4ha/ hộ, cánh đồng bằng phẳng, nên mỗi cánh đồng mẫu lớn có diện tích từ 300-500 ha thuận tiện cho việc cơ giới hóa, làm đất, gieo sạ, thu hoạch [9].
Ba là, giao thông vận tải thuận tiện. Ở miền Nam có nhiều kênh rạch, sông ngòi, vận chuyển thóc gạo theo đương thủy thuận lợi, khí hậu có độ ẩm thấp, dễ bảo quản, dễ đưa nông sản đến các cảng để xuất khẩu
Bốn là, có đội ngũ cán bộ kỹ thuật chất lượng cao để hướng dẫn nông dân đưa công nghệ mới vào sản xuất, thực hiện các biện pháp thâm canh tổng hợp “3 giảm, 3 tăng” để nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo ra vùng nguyên liệu chất lượng cao phục vụ xuất khẩu.
Năm là, được sự quan tâm và ủng hộ của chính quyền các cấp từ tỉnh đến xã, tạo điều kiện thuận lợi để công ty hoàn thành dự án của mình cùng với sự tin yêu, quí mến và hợp tác của bà con nông dân.
3.1.2 Những khó khăn khi nhân rộng cánh đồng mẫu lớn
Từ thực tế khảo sát kết quả triển khai mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” tại Thái Bình, có thể rút ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến kết quả của việc thực hiện mô hình còn nhiều hạn chế
Một là: Thiếu những công ty chế biến và tiêu thụ nông sản đóng vai trò chủ động xây dựng cánh đồng mẫu lớn để liên kết 4 nhà (Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp) được coi là chìa khóa thành công. Giữa doanh nghiệp và nông dân gặp nhiều khó khăn do hai bên chưa có sự hài hòa, chia sẻ lợi ích và rủi ro nên không xây dựng được mối liên kết chặt chẽ. Nhiều doanh nghiệp vẫn muốn duy trì cách thức mua lúa qua thương lái, các nhà máy chế biến cũng ít ký hợp đồng ràng buộc trách nhiệm với nông dân. Người nông dân luôn ở thế yếu vì không có quyền quyết định giá. Nông dân vẫn loay hoay với việc trồng cây gì, nuôi con gì để đảm bảo đầu ra ổn định. Hiện tại, có một số doanh nghiệp thu mua lúa nhưng quy mô nhỏ không có năng lực tăng lượng thu mua do thiếu nguồn nhân lực, phương tiện (máy sấy, kho chứa, xay xát..), nguồn vốn và hệ thống thu mua. Một số doanh nghiệp cũng tích cực tham gia, đang đầu tư xây dựng hệ thống kho chứa, sấy, chế biến, nhưng vẫn phải bán sản phẩm thông qua một doanh nghiệp xuất khẩu khác. Phương thức phổ biến hiện nay của các doanh nghiệp là mua sản phẩm thông qua thương lái từ nhiều nguồn khác nhau, dẫn đến sản phẩm không cùng một giống, không cùng thời điểm thu hoạch,
cách phơi sấy, chế biến… chưa đảm bảo chất lượng gạo. Hiện nay, cánh đồng mẫu lớn chỉ mới dừng ở việc tổ chức sản xuất, còn việc giải quyết đầu ra vẫn bế tắc. Hợp đồng kinh tế về thu mua sản phẩm của doanh nghiệp với đại diện hộ nông dân còn mang tính nguyên tắc, chưa có tính pháp lý cao.
Hai là: Bình quân diện tích/hộ thấp, gây trở ngại cho cơ giới hóa
Cả nước hiện có tới 70 triệu mảnh ruộng, bình quân mỗi mảnh từ 300- 400m2, trong đó mỗi hộ có tới 7-10 mảnh ruộng[4]. Sự manh mún này đang cản trở cơ giới hóa nông nghiệp và áp dụng khoa học kỹ thuật, nên không tận dụng được tính kinh tế theo quy mô lớn và giảm hiệu quả sản xuất. So với miền Nam, bình quân diện tích đất thấp, manh mún, nhỏ lẻ. Thực tế cho thấy, mặc dù việc dồn điền đổi thửa đã được tiến hành từ nhiều năm nay nhưng kết quả đạt được rất thấp, do đó chưa áp dụng được quy trình sản xuất hàng hóa theo tiêu chuẩn GAP. Thị
trường lúa gạo phía Bắc chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước hoặc xuất khẩu tiểu ngạch. Phần lớn các hộ nông dân có diện tích trồng lúa nhỏ, ruộng đất manh mún, sản xuất lúa theo hướng tự cung tự cấp, chưa có hướng sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn. Bên cạnh đó, do lo ngại mất quyền sử dụng đất nên nông dân chưa tự nguyện góp đất, phá bờ thửa để tham gia mô hình, điều này gây khó khăn trong việc đưa máy móc vào đồng ruộng.
Ba là: Trình độ nông dân không đồng đều nên việc tiếp thu tiến bộ kỹ thuật bị hạn chế, nhận thức về sản xuất cây trồng an toàn chưa cao, việc ghi chép nhật ký sản xuất là yêu cầu quan trọng nhưng chưa được nông dân quan tâm đúng mức. Nhìn chung, mô hình "Cánh đồng mẫu lớn" đã góp phần thúc đẩy nông dân tự nguyện dồn điền đổi thửa, quy hoạch thiết kế lại đồng ruộng, cải tạo nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng thủy lợi, giao thông nội đồng. Qua đó, nhà nông từng bước tiến tới sản xuất hàng hóa nông sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện cho việc phân công lại lao động trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, mô hình "Cánh đồng mẫu lớn ở các tỉnh phía Bắc còn gặp nhiều trở ngại. Đa số nông dân chưa có kinh nghiệm sản xuất tập trung. Số
hộ nông dân tham gia trong mỗi mô hình còn quá nhiều so với diện tích canh tác. Nông dân còn thụ động trong việc xử lý các giải pháp kỹ thuật mặc dù đã được tập huấn, còn lệ thuộc vào tập thể và trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Tập quán làm ăn tư hữu, nhỏ lẻ vẫn ăn sâu trong nếp nghĩ và cách làm của người nông dân, cho nên việc gieo cấy một giống lúa, chăm sóc, bảo vệ thực vật... trong cùng một thời điểm gặp nhiều khó khăn. Không ít hộ còn băn khoăn, nếu khi trồng cùng một giống lúa mà được mùa thì bán cho ai? Việc ghi chép sổ tay nhật ký đồng ruộng cũng chưa nghiêm túc. Phần lớn nông dân đều ít vốn, sản xuất phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng. Do đó, ngay sau khi thu hoạch người nông dân phải bán lúa tại ruộng để trả nợ, tái sản xuất mặc dù giá lúa bán rẻ. Ngay cả những hộ gia đình không bị áp lực nợ nần nhưng do gặp khó khăn trong việc phơi, sấy cũng buộc phải bán lúa tươi.
Bốn là: Nguồn kinh phí đào tạo còn ít ỏi, đội ngũ cán bộ kỹ thuật từ huyện đến cơ sở còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng nên khó khăn cho việc đào tạo, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân.
Năm là: Hệ thống cơ sở hạ tầng còn kém, giao thông và thủy lợi chưa thuận tiện. Ví dụ ở Thái Bình, muốn xuất khẩu gạo phải chuyên chở bằng đường bộ duy nhất là đường số 10 ra cảng Hải Phòng, không những chi phí vận chuyển cao mà còn vấp phải tình trạng lượng nông sản chưa đủ giao thì số gạo tạm lưu kho đã bị mốc vì không có kho chuyên dụng, độ ẩm ở miền Bắc lại cao.
3.2 NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ NHÂN RỘNG MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN”
3.2.1 Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi các công ty chế biến và tiêu thụ nông sản để họ tích cực và trực tiếp chủ trì việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn
Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong việc hoàn thiện thể chế hợp đồng kinh tế ký kết giữa nông dân với doanh nghiệp, nhà khoa học nhằm giảm đến mức thấp nhất việc phá vỡ hợp đồng trong mô hình “cánh đồng mẫu lớn.