dục từ năm 1945 đến nay, trên cơ sở phân tích, đánh giá lịch sử phát triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay, tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục trong thời gian qua xác định phương hướng xây dựng pháp luật từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
III. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
1. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp luận
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
b. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phân tích quy định của pháp luật
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, khảo sát thực tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Lịch sử pháp luật về giáo dục ở Việt Nam từ 1945 đến nay - 1
- Sự Pháp Điển Pháp Luật Về Giáo Dục Ở Nước Ta
- Pháp Luật Về Giáo Dục Từ Ngày Thành Lập Nước Đến Khi Kết Thúc Cuộc Kháng Chiến Chống Thực Dân Pháp (1945 - 1954)
- Pháp Luật Về Giáo Dục Thời Kỳ Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước (1954 - 1975)
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến nay; tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục trong thời gian qua nhằm xác định phương hướng, giải pháp xây dựng pháp luật từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và nhận thức về pháp luật về giáo dục.
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
- Phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay, các quy định pháp luật về giáo dục và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục, xác định phương hướng, đề xuất nội dung cụ thể xây dựng pháp luật từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
- Phân tích quy định pháp luật về giáo dục của một số quốc gia ở các trình độ phát triển khác nhau trên thế giới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của pháp luật về giáo dục từ năm 1945 đến nay; tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
IV. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
Đề tài sẽ được thực hiện theo các bước cụ thể như sau:
- Bước 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển của pháp triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay và của việc xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020.
- Bước 2. Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay.
- Bước 3. Phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay, các quy định pháp luật về giáo dục và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục.
- Bước 4. Nhận định phương hướng xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 trên cơ sở phân tích lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay; Phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay, các quy định pháp luật về giáo dục và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục có đối chiếu quy định pháp luật về giáo dục của một số quốc gia ở các trình độ phát triển khác nhau trên thế giới.
Bước 5. Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ GIÁO DỤC VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục và hoàn thiện pháp luật về giáo dục
Quan điểm về phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta đã được khẳng định tại Sắc lệnh số 146/SL ngày 10/8/1946, đó là “Nền giáo dục nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nền giáo dục duy nhất, đặt trên ba nguyên tắc căn bản: đại chúng hoá, dân tộc hoá, khoa học hoá, và theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng Quốc gia và dân chủ”. Từ sau khi cách mạng tháng 8 thành công đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp phát triển giáo dục. Hệ thống mạng lưới nhà trường đã phủ khắp toàn quốc đến tận từng thôn bản xa xôi, để thực hiện mục tiêu xóa mù chữ, phổ cấp giáo dục tiểu học, rồi phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, tiến tới phổ cập giáo dục trung học. Hiện nay, cả nước vẫn đang tích cực xây dựng xã hội học tập, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, ai cũng được học hành.
Vấn đề phát triển giáo dục đang được toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước đang tập trung hơn, ưu tiên hơn đối với các vùng khó khăn, như vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng Tây Nguyên và đã thu được một số kết quả, thể hiện tính ưu việt của chế độ trong giáo dục. Về nội dung giáo dục, không những coi trọng giáo dục kiến thức, mà còn chú ý nhiều vấn đề giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên, nhất là giáo dục về đạo đức cách mạng, về truyền thống dân tộc, về những nét đẹp văn hóa, ý thức quý trọng người lao động, gắn bó với nhân dân, ý thức phục vụ nhân dân, coi đó là lý tưởng của cuộc đời, ý nghĩa của cuộc sống. Thực hiện đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa giáo dục: sự nghiệp phát triển giáo dục không
phải là công việc riêng của Đảng và Nhà nước mà các đoàn thể xã hội và nhân dân phải cùng chăm lo.
Quan điểm về tính dân tộc của nền giáo dục đã được thể hiện sâu sắc trong các văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước về giáo dục. Tính dân tộc của nền giáo dục nước nhà thể hiện ở nội dung giáo dục, hết sức coi trọng truyền thống giáo dục dân tộc, coi đây là một nội dung xuyên suốt tất cả các môn học. Trong các môn học đã chú ý hơn đến việc giảng dạy và học tập ngôn ngữ, lịch sử, văn học và địa lý nước nhà. Kể từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tiếng Việt được khẳng định là ngôn ngữ chính thức dạy trong nhà trường. Ngay từ các lớp tiểu học, cần quan tâm thích đáng đến tính địa phương trong chương trình và kế hoạch dạy học, giáo dục cả trên lớp lẫn ngoài giờ lên lớp, sau nâng dần lên học lịch sử của dân tộc, giáo dục tinh thần dân tộc và lòng yêu nước, gắn liền với giáo dục "ý thức công dân". Giáo dục tinh thần bình đẳng giữa các dân tộc cùng sống trên đất nước Việt Nam, tương trợ lẫn nhau, thực hiện đại đoàn kết dân tộc cùng nhau bảo vệ và xây dựng đất nước. Văn hóa các dân tộc đều có bước phát triển mới hơn hẳn thời kỳ trước cách mạng. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định, văn hóa các dân tộc cần được phát huy và phát triển, tiếng nói và chữ viết riêng của các dân tộc cần được giữ gìn. Điều 5 Luật Giáo dục quy định: "Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình".
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 xác định mục tiêu tổng quát là tạo bước thay đổi căn bản về chất lượng giáo dục; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc tế; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, coi
trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành; đẩy mạnh đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước; xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát triển năng động của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đang làm việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên hiện thực hơn và nhanh hơn. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học - công nghệ, đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ mai sau.
Cải cách giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Bối cảnh trên đã tạo ra những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục. Nhà trường từ chỗ khép kín chuyển sang mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã hội và gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng, nhà giáo thay vì chỉ truyền đạt tri thức, chuyển sang cung cấp cho người học phương pháp thu nhận thông tin một cách hệ thống, có tư duy, phân tích và tổng hợp. Vì vậy, các quốc gia từ những nước đang phát triển đến những nước phát triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước.
Giáo dục ngày nay phải tạo được động lực thúc đẩy học tập suốt đời, góp phần loại bỏ khả năng không được học do thiếu cơ hội và điều kiện giáo dục, hướng tới xây dựng một xã hội học tập. Nó cho phép từng cá nhân phát
triển khả năng sáng tạo, tinh thần chủ động và khả năng thích nghi từ đó làm tăng khả năng tự chủ trong đời sống và công việc. Giáo dục ban đầu tạo cơ sở vững chắc để mọi người có thể học tập suốt đời. Với cách nhìn đó, giáo dục là cả một quá trình lâu dài. Giáo dục, học tập suốt đời không hạn chế về việc giáo dục ban đầu, mà chính là phát triển giáo dục thường xuyên, phát triển một xã hội học tập. Nâng cao tri thức phải được coi là mục tiêu đầu tiên của nhiệm vụ giáo dục. Việc đa dạng hóa các loại hình giáo dục cũng là một yếu tố khuyến khích việc làm giàu tri thức và tạo điều kiện xây dựng một xã hội học tập. Nước ta đang tiến hành thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đồng thời lại phải đối mặt với ảnh hưởng của giai đoạn thông tin hóa và giáo dục dịch vụ. Là hình thức mới tất nhiên sẽ có những vấn đề mới cần nghiên cứu và thực hiện sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội. Chính trong tình hình như vậy cần đổi mới công tác quản lý nhà nước về giáo dục. Trước hết, phải xác định: giáo dục phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải dựa vào giáo dục.
Do vậy phải có những chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức vai trò và vị trí của giáo dục trong tiến trình phát triển quốc gia. Trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước mặc dù giáo dục là một lĩnh vực luôn luôn được coi trọng, song giáo dục nước ta mới chỉ được xem là "một bộ phận quan trọng của cách mạng văn hóa tư tưởng, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa tư tưởng, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển văn hóa kỹ thuật" (Nghị quyết số 14 của Bộ Chính trị năm 1979). Với ý nghĩa đó giáo dục nằm trong thượng tầng kiến trúc có tác động và vai trò chủ yếu trong lĩnh vực dân trí, thay đổi nhận thức ý thức xã hội. Quan niệm trên đã đặt cơ sở cho bước phát triển mới, căn bản khi giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển được khẳng định trong các văn kiện Đại hội VII (1991), VIII (1996) và Đại hội IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam (2001), Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và nhiều văn kiện khác của Đảng và Chính phủ. Giáo dục và Đào tạo góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, tạo nguồn lực quan trọng cho công cuộc phát triển quốc gia.
Quan điểm "phát triển giáo dục là quốc sách đầu" của Đảng và Nhà nước ta đối với giáo dục được thể hiện nhất quán trong các chủ trương, chính sách. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ yêu cầu về quyền được học tập của nhân dân. Phát triển giáo dục bao gồm cả hai mặt: phát triển về số lượng và phát triển về chất lượng. Trong mỗi mặt đó, sự phát triển thể hiện về số lượng và phát triển về chất lượng. Trong mỗi mặt đó, sự phát triển thể hiện ở đội ngũ người học, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, mạng lưới trường lớp và cơ sở vật chất, chương trình và nội dung giáo dục, các điều kiện tài chính, cơ chế chính sách và gắn với hiệu quả giáo dục. Phát triển về số lượng là quan trọng, còn phát triển về chất lượng là quyết định vì chính chất lượng sẽ xác định hiệu quả của phát triển giáo dục. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu và phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước, bảo đảm sự hợp lý về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả. Phát triển giáo dục là một quá trình, kế thừa các thành tựu, kết quả của các giai đoạn trước và là một quá trình biến đổi dần đi tới mục tiêu.
Khi nói "phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu" là muốn nói đến một chính sách có liên quan đến tất cả mọi người, mọi vùng miền của đất nước, và phải đi trước một bước so với các chính sách khác. Như vậy, khi nói "phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu" có nghĩa là chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước có tầm quan trọng vào hàng thứ nhất trong tất cả các