4.000 tập đoàn sản xuất gặp khó khăn và dần dần bị tan rã, công tác cải tạo nông nghiệp cũng bị buông lơi ở một số địa phương.
Để chấn chỉnh những lệch lạc đó, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 93 (tháng 6 năm 1980) nhấn mạnh tinh thần tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp Nam Bộ. Do vậy, đến cuối năm 1980, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp dần đi vào ổn định. Gần 90% hộ nông dân đã vào các tập đoàn sản xuất hoặc hợp tác xã và khoảng 90% ruộng đất đã được đưa vào các tổ chức này.
Tuy nhiên, giống như miền Bắc, công cuộc hợp tác hóa ở miền Nam đã có những biểu hiện "chủ quan, nóng vội trong cải tạo, gò ép nông dân vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, đưa hợp tác xã lên quy mô lớn, tập thể hóa triệt để tư liệu sản xuất trong khi chưa có đủ điều kiện, áp dụng máy móc những hình thức tổ chức và quản lý giống nhau vào các vùng và các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất khác nhau"1. Vì thế, về sau, ở nhiều nơi, có
không ít tập đoàn sản xuất, hợp tác xã gặp khó khăn, khủng hoảng đi đến tan vỡ.
Bên cạnh việc chú trọng xây dựng các hợp tác xã bậc cao, vốn đầu tư xây dựng cơ bản dành cho nông nghiệp giai đoạn này cũng cao nhất trong lịch sử phát triển nông nghiệp Việt Nam tính đến thời điểm 1976- 1980 với 19-23%. Nhờ vậy, đến năm 1980, đã có 4.141 công trình thủy nông các loại có khả năng tưới cho khoảng 1.071,6 nghìn ha và tiêu úng cho khoảng 508,7 nghìn ha; điện cung cấp cho nông nghiệp tăng từ 219 triệu KWh (năm 1976) lên 233 triệu KWh (năm 1980); máy kéo các loại tăng từ 2.297 chiếc (năm 1976) lên 37.019 chiếc (năm 1980); máy bơm
nước từ 18.700 chiếc (năm 1976) lên 300.000 (năm 1980).
Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện chủ trương đưa nông nghiệp miền Bắc lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và tiến hành cải tạo nông nghiệp miền Nam, tình hình sản xuất nông nghiệp trên phạm vi cả nước vẫn không được cải thiện, thậm chí có dấu hiệu giảm xuống. Sản lượng thóc không tăng mà còn giảm. Năm 1976 là 11,827 triệu tấn; năm 1977
1 Nghị quyết của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp, Báo Nhân dân ngày 12/4/1988.
giảm còn 10,957 triệu tấn; năm 1978 là 9,789 triệu tấn; 1979 là 11,362 triệu tấn; 1980 là 11,647 triệu tấn. Sản lượng các nông sản khác cũng giảm đáng kể, như lạc, năm 1976 sản lượng là 98,1 nghìn tấn, đến năm 1979 giảm còn 81,1 nghìn tấn. Một số cây công nghiệp (mía, chè, cà phê, cao su...) tăng không đáng kể. Tổng sản lượng hoa màu lương thực quy ra thóc của cả nước năm 1976 là 1.665,9 nghìn tấn, năm 1977 là 2.024,7 nghìn tấn; năm 1978 là 2.475,4 nghìn tấn; năm 1979 là 2.620,9 nghìn tấn; năm 1980 là 2.759 nghìn tấn.
Có thể bạn quan tâm!
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 13
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 14
- Bối Cảnh Lịch Sử Và Đường Lối Kinh Tế
- Trong Lĩnh Vực Giao Thông Vận Tải Và Bưu Điện
- Trong Lĩnh Vực Tài Chính, Tiền Tệ Và Giá Cả
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 19
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
Cùng với ngành trồng trọt, chăn nuôi cũng được chú ý đầu tư phát triển, song hiệu quả kinh tế rất hạn chế. Số lượng gia súc cày kéo cũng như gia súc nuôi lấy thịt hàng năm hầu như không tăng lên nhiều. Năm 1976 đàn trâu đạt 2.256,5 nghìn con, đàn bò đạt 1.595,2 nghìn con, đàn lợn đạt 8.958,1 nghìn con. 5 năm sau năm 1980, con số tương với từng loại gia súc là 2.323 nghìn con, 1.664,2 nghìn con và 10.001,2 nghìn con.
Mô hình tập thể hóa trong nông nghiệp rơi vào khủng hoảng, kéo theo sự khủng hoảng của kinh tế nông nghiệp. Nền nông nghiệp ở cả hai miền đã bộc lộ mâu thuẫn gay gắt giữa lợi ích của cá nhân người nông dân với lợi ích của xã hội. Việc xác định con đường hợp tác hóa nông nghiệp dựa trên cơ sở tập thể hóa triệt để tư liệu sản xuất và sức lao động chính là nguồn gốc của sự mâu thuẫn này. Đã có nơi xảy ra hiện tượng, hợp tác xã tự chia ruộng cho các hộ gia đình xã viên canh tác rồi nộp sản phẩm cho hợp tác xã theo thỏa thuận mà chưa có sự chỉ đạo từ cấp trên. Đây chính là hình thức "khoán chui" trong nông nghiệp.
6.2.1.2. Trong lĩnh vực công nghiệp
Nhiệm vụ phát triển công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần 2 là:
1) Tiếp tục thực hiện đường lối công nghiệp hóa và xây dựng một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế mới công - nông nghiệp; 2) Khôi phục và phát triển sản xuất công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu trang thiết bị và các hàng hóa tiêu dùng cho nhân dân; 3) Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp miền Nam, thống nhất quản lý và tổ chức công nghiệp trong cả nước.
Sau giải phóng, công nghiệp miền Nam đình đốn, một phần vì thiếu nguyên vật liệu và phụ tùng thay thế (những thứ trước đây vốn do nhập khẩu mà có), một phần do thái độ bất hợp tác của giai cấp tư sản đối với cải tạo. Vì vậy, mục tiêu khẩn trương tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp ở miền Nam được đặt ra. Tuy vậy, giai cấp tư sản miền Nam có thực lực kinh tế và kinh nghiệm hoạt động nên cải tạo công nghiệp ở miền Nam khó hơn miền Bắc (miền Nam có khoảng 2 vạn nhà tư sản, gấp 10 lần ở miền Bắc trước đây, thêm vào đó vốn và tài sản của họ cũng nhiều hơn).
Tháng 9 năm 1975 chiến dịch cải tạo tư sản miền Nam lần 1 được tiến hành với mục tiêu hoàn thành việc xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Tháng 12 năm 1976 tiếp tục thực hiện Chiến dịch cải tạo tư sản lần 2. Bộ Chính trị chủ trương hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam trong 2 năm 1977-1978. Thực hiện chủ trương này, công cuộc cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam được thực hiện khẩn trương, nhanh chóng thông qua các bước sau: Thứ nhất, quốc hữu hóa và chuyển thành xí nghiệp quốc doanh đối với những cơ sở công nghiệp của tư sản mại bản và tư bản công nghiệp lớn chạy ra nước ngoài. Thứ hai, đối với các tư bản nhỏ và vừa, một số chuyển thành các xí nghiệp quốc doanh còn đa số chuyển thành công tư hợp doanh. Tổ chức lại các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở những vùng tập trung và trong những ngành quan trọng; có một bộ phận đưa vào hợp tác xã. Thứ ba, đối với tiểu thủ công nghiệp, tổ chức thành các hợp tác xã và các tổ sản xuất.
Trong năm 1976, tư sản mại bản và tư sản lớn trong công nghiệp bị xóa bỏ. Năm 1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội nghị Tổng kết cải tạo công thương nghiệp nhận định: nhiệm vụ cải tạo tư sản công nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có việc xóa bỏ sự lũng đoạn của tư sản người Hoa về cơ bản đã hoàn thành. Đến tháng 5 năm 1979, tất cả các xí nghiệp công quản ở miền Nam trước đây đã được chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên về thực chất, công cuộc cải tạo này mới chỉ xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ trong công nghiệp về mặt hình thức mà chưa xác lập được quan hệ sản xuất mới trên thực tế.
Do đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp ở miền Nam và sự đầu tư xây dựng mới trên phạm vi toàn quốc, số lượng cơ sở quốc doanh và công tư hợp doanh nước ta đã tăng lên nhanh chóng, từ
2.021 xí nghiệp năm 1976 lên 2.538 xí nghiệp năm 1980, chủ yếu là tăng số lượng các xí nghiệp thuộc nhóm A (công nghiệp nặng). Các xí nghiệp nhóm B (công nghiệp nhẹ) chỉ tăng từ 945 xí nghiệp lên 1.080 xí nghiệp. Tuy nhiên, các xí nghiệp này không có mấy cơ hội phát huy tính chủ động của mình trong sản xuất kinh doanh vì "cơ chế kế hoạch hóa tập trung và quản lý của Nhà nước vẫn còn rất mạnh" [GS.TSKH. Trần Văn Thọ, 2000, 139]. Do vậy, số lượng xí nghiệp tăng nhanh nhưng kết quả sản xuất tăng không tương xứng.
Trong giai đoạn 1976-1980, nhiều công trình được đầu tư xây dựng nhằm mục tiêu phát triển lâu dài: cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại, xi măng Hoàng Thạch, xi măng Bỉm Sơn... Một số công trình loại nhỏ cũng được đầu tư xây dựng nhằm phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ngay trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai: nhà máy chè đen Cửu Long, nhà máy ván sợi ép Việt Trì, nhà máy Cơ khí trung tâm Cẩm Phả, nhà máy chế tạo bơm thuốc trừ sâu Bắc Hà, nhà máy giấy Bãi Bằng... Những công trình này đã làm gia tăng cơ sở vật chất của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng được một phần nhu cầu sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đầu tư của Nhà nước cho công nghiệp rất lớn (chiếm 35,5% tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản) và không ngừng tăng lên qua các năm nhưng sản xuất công nghiệp lại tăng rất chậm.
Trong 3 năm đầu 1976-1978 sản xuất công nghiệp phát triển tương đối đều, năm 1978 phát triển cao nhất, so với năm 1976 đạt 118,2%. Sau đó giảm xuống, năm 1980 chỉ còn bằng 102,5% so với năm 1976. Tính chung trong giai đoạn 1976-1980, tốc độ tăng bình quân hàng năm của công nghiệp chỉ đạt 0,6% thậm chí có xu hướng giảm (năm 1977 tăng 10,8%, năm 1978 tăng 8,2%, năm 1979 tăng 4,7%, năm 1980 tăng 10,3%). Do vậy, các mục tiêu phát triển công nghiệp được đặt ra trong Đại hội IV đều không đạt. Cụ thể: cơ khí đạt 80%, điện 72%, than 52%, gỗ tròn 45%, cá biển 40%, vải lụa 39%, giấy 37%, xi măng 32%,
phân hóa học 28%. Nhiều công trình quy mô lớn được đầu tư để phục vụ cho phát triển công nghiệp nặng, nhưng hết kế hoạch 5 năm hầu hết các công trình này vẫn còn dang dở, chưa đi vào hoạt động. Trong khi đó, công nghiệp nhẹ chưa được chú trọng đúng mức nên dẫn đến tình trạng thiếu nguyên, nhiên liệu, công suất hoạt động chỉ đạt 30-50%. Đáng chú ý là công nghiệp trung ương giảm sút nhiều, hàng năm giảm 4% do thiếu nguyên liệu.
6.2.1.3. Trong lĩnh vực thương nghiệp
Ở miền Nam, trước giải phóng nhìn chung thị trường mang tính chất tư bản chủ nghĩa và tương đối phát triển, có quan hệ buôn bán với nhiều nước trên thế giới. Tư sản mại bản nắm lượng tài sản và hàng hóa lớn, có mạng lưới phân phối rộng khắp các địa phương và có khả năng thao túng thị trường gây ra những vụ đầu cơ lớn, những cơn sốt giá cả. Vì thế, chiến dịch cải tạo thương nghiệp ở miền Nam được tiến hành ngay sau ngày giải phóng. Đến cuối năm 1975, đợt 1 của chiến dịch cải tạo tư sản mại bản được tiến hành tại các thành phố lớn ở miền Nam bằng nhiều biện pháp: kiểm kê, tịch thu hàng hóa, đánh thuế siêu ngạch tồn kho... Một năm sau, đợt 2 của chiến dịch tiếp tục được thực hiện với số tư sản mại bản còn lại. Đến đầu năm 1978, chiến dịch cải tạo tư sản thương nghiệp lại được đẩy mạnh và được tuyên bố hoàn thành trong năm này. Đối với tiểu thương, Nhà nước tiến hành kiểm kê hàng hóa, trưng thu hàng tồn kho giao cho thương nghiệp quốc doanh quản lý, tổ chức lại kinh doanh theo ngành hàng tại các chợ trọng điểm, các hộ tiểu thương được chuyển về nông thôn tham gia sản xuất nông nghiệp hoặc đi vùng kinh tế mới. Kết quả là giai cấp tư sản thương nghiệp, các nhà buôn lớn đã mất đi một khối lượng đáng kể hàng hóa và phương tiện kinh doanh, đã giảm bớt được hàng vạn tiểu thương, tình hình thị trường đã chuyển biến theo chiều hướng thuận lợi.
Cùng với công cuộc cải tạo thương nghiệp ở miền Nam là chủ trương phát triển thương nghiệp trên phạm vi cả nước. Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã mua bán đã từng bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn chế được ở mức độ nhất định nạn đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn giá cả thị trường. Chính sách
mua bán thời kỳ này được thực hiện theo phương thức: tập trung đại bộ phận nguồn hàng vào tay thương nghiệp quốc doanh sau đó bán ra theo hướng "phân phối có kế hoạch" cho các đối tượng theo những cách thức khác nhau. Năm 1975 số điểm bán hàng của thương nghiệp quốc doanh là 7.824 điểm, trong đó thương nghiệp bán lẻ là 6.620 và ăn uống công cộng là 1.204 điểm. Con số tương tự của năm 1980 là 11.945, 10.061 và 1.884. Các hợp tác xã mua bán đến năm 1980 đã xây dựng được 10.918 điểm bán hàng. Mặc dù phát triển nhanh, nhưng thương nghiệp quốc doanh vẫn còn non yếu; các hợp tác xã cũng chưa đủ sức hỗ trợ cho thương nghiệp quốc doanh thu mua, nắm nguồn hàng, phân phối bán lẻ và chi phối thị trường. Việc tổ chức quản lý thương nghiệp tư nhân còn bị buông lỏng. Việc theo dõi, nắm bắt tình hình thị trường chưa cụ thể và sát sao, do đó chưa kịp thời đối phó và ngăn chặn được các thủ đoạn phi pháp của gian thương.
Ở miền Nam, sau thời gian đầu cải tạo có sự buông lỏng quản lý nên số người làm nghề buôn bán và dịch vụ tăng nhanh. Tư thương nắm quyền chi phối nhiều loại hàng hóa tiêu dùng. Nhìn chung, những năm cuối thập niên 1970, thương nghiệp quốc doanh đã không làm chủ được thị trường hàng nông sản - thực phẩm. Đối với hàng tiêu dùng bán lẻ cung cấp, thương nghiệp quốc doanh đã trở thành kho hàng phân phối theo định lượng, ngân sách phải bù lỗ nặng nề.
Hoạt động buôn bán đối ngoại trong bối cảnh đất nước thống nhất cũng có những thuận lợi mới. Chúng ta có điều kiện và khả năng khai thác tiềm năng của cả nước về thiên nhiên cũng như lao động để đẩy mạnh xuất - nhập khẩu. Hoạt động ngoại thương giai đoạn này được vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, có nghĩa là mọi hoạt động xuất nhập khẩu đều được thực hiện theo kế hoạch và chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Ngoại thương do các tổng công ty xuất - nhập khẩu của nhà nước đảm nhiệm. Bộ Thương mại là cơ quan chịu trách nhiệm đề xuất, lên kế hoạch và kiểm soát việc thực hiện chính sách ngoại thương. Lãi được nộp vào ngân sách nhà nước, lỗ nhà nước bù. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu không được quyền chủ động trong hoạt động xuất nhập khẩu của mình.
Trong những năm 1976-1978, tình hình kinh tế đối ngoại của nước ta diễn ra tương đối thuận lợi. Năm 1977, Việt Nam tham gia ngân hàng đầu tư quốc tế và ngân hàng hợp tác quốc tế thuộc Hội đồng tương trợ kinh tế. Tháng 7-1978 trong khóa họp lần thứ 32 của Hội đồng tương trợ kinh tế, chính phủ quyết định đưa Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên chính thức của Hội đồng tương trợ kinh tế. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng mở đầu một giai đoạn mới trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc ký những Hiệp ước hợp tác và hữu nghị với nhiều nước xã hội chủ nghĩa, ngày 18/4/1977, Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ về đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, nhằm tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, xã hội trên nguyên tắc bảo đảm độc lập, chủ quyền của Việt Nam và các bên cùng có lợi.
Tuy nhiên sau năm 1978, tình hình kinh tế đối ngoại diễn biến với nhiều khó khăn, phức tạp. Chính sách cấm vận, phân biệt đối xử của Mỹ và một số nước đồng minh, cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc gây cho chúng ta không ít những khó khăn và mất cân đối nhiều mặt trong nền kinh tế. Thị trường biến động, giá cả hàng hóa tăng nhanh. Mức giá trong nước đối với hàng nhập khẩu không bù được giá vốn. Cơ chế lấy thu bù chi trong ngoại thương đã làm cho ngân sách Nhà nước phải bù lỗ xuất khẩu ngày một tăng lên. Hoạt động xuất nhập khẩu trì trệ, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng nề.
6.2.1.4. Trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả
a. Về tài chính
Trước những hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai và nguồn viện trợ nước ngoài bị cắt giảm, nền tài chính nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức. Vì vậy, nhiệm vụ cấp thiết của ngành tài chính lúc này là phải tập trung làm chủ các nguồn vốn và thực hiện thống nhất chế độ tài chính trong cả nước. Trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động tài chính hướng vào việc khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, tập trung thống nhất các chính sách, chế độ và biện pháp quản lý tài chính trong cả nước.
Để có thêm nguồn lực tài chính nhiều chính sách động viên thông qua cải tiến công tác khoán, mở rộng hợp tác xã nông nghiệp; sửa đổi thuế công thương nghiệp, pháp lệnh thuế nông nghiệp, phát hành Công trái xây dựng tổ quốc đã được thực hiện nhằm động viên lòng yêu nước của nhân dân, tạo thêm nguồn lực tài chính, cải thiện đời sống và xây dựng đất nước. Trong đó chính sách động viên qua hình thức thuế và thu quốc doanh đã được thống nhất dần từng bước, gắn với công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở cả hai miền. Đến năm 1978, bắt đầu thực hiện chế độ thu quốc doanh đối với tất cả các sản phẩm công nghiệp của xí nghiệp quốc doanh. Còn đối với các hoạt động vận tải, bưu điện, kinh doanh ăn uống, dịch vụ... thì nộp dưới hình thức lợi nhuận. Ngoài thu tích lũy của các xí nghiệp quốc doanh, Nhà nước còn huy động vào Ngân sách 100% khấu hao cơ bản, các khoản hoàn vốn thừa, biến giá tài sản cố định, thu khác của xí nghiệp và thu sự nghiệp. Nhờ đó thu từ kinh tế quốc doanh năm 1976 bằng 1,61 lần năm 1975; tính trong 5 năm 1976-1980 bằng 4,33 lần so với giai đoạn 1961-1965 và bằng 1,76 lần số thu của 10 năm 1966-1975.
Về thuế công thương nghiệp, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lại sản xuất kinh doanh và quản lý thu thuế. Đầu năm 1979, Nhà nước đã cho phép vận dụng chính sách thuế Công thương nghiệp ở miền Bắc vào miền Nam. Năm 1980, điều lệ thuế Công thương nghiệp bước đầu được bổ sung, điều lệ đăng ký kinh doanh công thương nghiệp ra đời, đồng thời hệ thống thuế công thương nghiệp từ trung ương đến địa phương được chấn chỉnh và tăng cường một bước nhằm tăng thu cho ngân sách, thực hiện chặt chẽ việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động của sản xuất kinh doanh, tăng cường quản lý thị trường. So với năm 1975, thuế công thương nghiệp năm 1976 bằng 3,48 lần. Đến năm 1980, thuế công thương nghiệp gần gấp đôi năm 1976. Tính trong 5 năm 1976-1980, thuế công thương nghiệp bằng 5,60 lần so với giai đoạn 1961-1965 và bằng 2,76 lần số thuế công thương nghiệp của 10 năm 1966-1975.