Kinh Tế Miền Nam Trong Vùng Mỹ – Ngụy Kiểm Soát

Nội dung sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền Bắc đã có những biến đổi căn bản: Những tàn tích của nền kinh tế thực dân phong kiến đã được xóa bỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập một cách phổ biến (chủ yếu là đã thiết lập được chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới 2 hình thức: toàn dân và tập thể); Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã ngày càng được tăng cường (số xí nghiệp quốc doanh và công ty hợp danh năm 1975 so với 1955 đã tăng lên 16,5 lần), lực lượng lao động xã hội được phân bố lại hợp lý hơn. Lương thực được phát triển khá hơn trước, đã hình thành được những ngành chủ yếu của công nghiệp nặng, trong đấy có ngành trước đây ta không có, công nghiệp nhẹ đã giải quyết được 90% hàng tiêu dùng chủ yếu của nhân dân.Đời sống nhân dân miền Bắc đã được cải thiện rò rệt so với trước.

Tuy nhiên, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vẫn chưa thực sự được củng cố và cải thiện, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn kém, sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, năng suất lao động xã hội còn thấp, đời sống nhân dân còn khó khăn.

Từ thực tiễn của 20 năm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã cho ta nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích trong vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

8.3.3. Kinh tế miền Nam trong vùng Mỹ – Ngụy kiểm soát

* Chính sách kinh tế của Mỹ - Ngụy:

Mỹ - Ngụy xóa bỏ nền kinh tế dân tộc dân chủ đã được thiết lập trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khôi phục lại quan hệ sản xuất phong kiến, xây dựng một nền kinh tế thị trường mở, nằm trong sự khống chế của đế quốc Mỹ.

Thông qua việc viện trợ, đế quốc Mỹ đã chi phối, lung đọa toàn bộ nền kinh tế miền Nam để phục vụ chiến tranh và chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.

Chúng thực hiện chính sách “cải cách điền địa” và tập trung dân trong nông nghiệp, chính sách “khuyến khích công kỹ nghệ” nhằm tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội ở cả nông thôn và thành thị.

Các chính sách kinh tế của Mỹ - Ngụy tạo điều kiệu cho tư bản phát triển mạnh mẽ ở miền Nam.

* Đặc điểm tình hình kinh tế:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

Quá trình biến đổi của nền kinh tế miền Nam có thể chia làm hai giai đoạn (1955 -1965) và (1965 - 1975), gắn liền với cường độ của cuộc chiến tranh thực dân mới ở miền Nam - chiến tranh đặc biệt năm 1961 - 1965, chiến tranh cục bộ năm 1965

- 1969 và Việt Nam hóa chiến tranh năm 1969 - 1975 với mức độ phát triển khác nhau của kinh tế hàng hóa ở cả thành thị và nông thôn.

Lịch sử kinh tế quốc dân - 18

- Giai đoạn 1955 - 1965

Nông nghiệp vẫn giữ nguyên tình trạng lạc hậu, độc canh, phát triển chậm chạp, bấp bênh như trong thời kỳ thực dân pháp thống trị. Sản lượng lúa không những chưa bằng năm 1945 mà còn không ổn định.

Công nghiệp của miền Nam ngày càng bị phụ thuộc vào tư bản nước ngoài, mở rộng cho tư bản nước ngoài nhất là Mỹ đầu tư vào miền Nam .

Hệ thống đường giao thông vận tải: Để phục vụ kế hoạch xâm lược của đế quốc Mỹ, giao thông vận tải đã được phát triển mạnh hơn, nhất là đường bộ và đường hàng không.

Thương nghiệp ở miền Nam là bộ phận tiêu thụ hàng viện trợ của Mỹ. Bộ máy nảy phình ra một cách rất bất hợp lý.

Nội thương miền Nam thực ra chỉ là kế tục khâu nhập cảng để phân phối hàng hóa viện trợ. Nó rất bấp bênh và ngày càng có nhiều khó khăn vì sản xuất bắt đầu bị đình đốn, vì tình trạng khủng bố ở nông thôn tăng lên và có sự cạnh tranh của hàng ngoại, thuế và phạt vạ ngày càng tăng.

Tài chính: Nguồn thu của ngụy quyền dựa vào viện trợ và thuế má chồng chất, xin viện trợ của nhiều nước (34 nước), nhưng chủ yếu là Mỹ.

- Giai đoạn 1965 - 1975:

Nông nghiệp: Mỹ - Ngụy cố gắng thúc đẩy nông nghiệp, lôi cuốn nông dân, đưa nền kinh tế tiểu nông theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

Công nghiệp: Vẫn rất nhỏ bé (công nghiệp chỉ chiếm 7,2%, nông nghiệp 39%, dịch vụ 50%) và bị què quặt (công nghiệp sản xuất máy móc hầu như không có), lại bị phá hoại nặng nề và bị đánh đồn, nhất là ngành đường và ngành dệt.

Giao thông vận tải: Từ năm 1965 đội quân vĩnh chinh Mỹ ồ ạt vào miền Nam, Mỹ -Ngụy đã chi hơn 2 tỷ đô la cho giao thông vận tải để mở rộng tu sửa và mở rộng các tuyến đường mới phục vụ quân sự. Đến cuối năm 1970 ở miền Nam có tới 1 nghìn km đường chiến lược quan trọng, 400 km đường sắt hoàn toàn được khôi phục, vài trăm đầu máy điêzen, 52 máy bay dành cho hàng không dân dụng, 5 sân bay có thể cho các phi cơ hạng nặng chuyên chở hành khách, 5 hải cảng lớn có đầy đủ trang bị, có thể nhận các loại tàu lớn từ 30.000 đến 40.000 tấn cập bến. Tuy nhiên do hoàn cảnh chiến sự ngày càng ác liệt, giao thông vận tải của chúng cũng trở nên rất khó khăn: nhiều đoạn đường sông bị tắc nghẽn vì bị du kích đánh chìm tàu. Đường bộ bị thiếu xe, thiếu phụ tùng, thiếu xăng. Đường hàng không thì tốn kém và cũng không đủ máy bay để chuyên chở. Con đường giao thông huyết mạch hoặc không ổn định hoặc bị cắt đứt. Cho nên chúng đã phải dùng hàng chục tiểu đoàn để bảo vệ một con đường vận tải.

Thương nghiệp: Kinh doanh thương nghiệp trở thành ngành kinh doanh lớn nhất ở Miền Nam (nhiều hơn cả công nghiệp), hình thành những công ty nhập cảng tổng hợp các ngành, khuyến khích tư sản công nghiệp chuyển sang kinh doanh xuất nhập

khẩu, đội ngũ thương nhân bành chướng ra làm nhiệm vụ tiếp nhận và phân phối hàng viện trợ.

Nhận hàng viện trợ là nội dung chủ yếu của hoạt động ngoại thương ở miền Nam thời kỳ này. Cơ cấu hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng.

Xuất khẩu ở miền Nam ngày càng bị giảm sút. Từ năm 1965 chỉ còn cao su là đáng kể, song cũng giảm dần, kim ngạch xuất chỉ bù cho nhập 1% vào năm 1969. Từ năm 1965 đến năm 1975 việc kinh doanh xuất nhập cảng do tư bản nước ngoài đảm nhận thực hiện.

Thị trường miền Nam là “chợ trời” của tư bản nước ngoài, nhưng mang tính chất phồn hoa giả tạo, nạn đầu cơ, tích trữ phát triển, hàng hóa phải qua nhiều khâu trung gian, lại bị tăng thuế và nạm phát nên giá cả hàng hóa tăng lên khủng khiếp.

Tài chính tiền tệ: Ngân sách của ngụy quyền là ngân sách chiến tranh và bị thiếu hụt nặng nề, vì chi tiêu tăng lên nhanh chóng: năm 1966 hụt 6 tỷ, năm 1969 hụt 43 tỷ, năm 1970 hụt 52 tỷ đồng miền nam. Để giải quyết sự thụt của ngân sách, ngụy đã tăng thuế (đồng loạt nên 20%), xin thêm viện trợ và lạm phát giấy bạc. Do đó, Mỹ ngụy liên tiếp phá giá đồng bạc. Đồng tiền bị mất giá là những gánh nặng đổ lên đầu nhân dân miền Nam vùng tạm bị chiếm. Điều đó phản ánh sự bế tắc trong nền kinh tế miền Nam lúc bấy giờ.

Sau 20 năm nền kinh tế miền Nam đã biến đổi từ một nền kinh tế có tính chất thực dân nửa phong kiến thành một nền kinh tế thực dân mới, theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Tuy đã có một số cơ sở sản xuất hiện đại của chủ nghĩa tư bản, song sản xuất nhỏ còn khá phổ biến. Nền kinh tế đó phát triển thấp kém, mất cân đối, bị sa sút và ngày càng khó khăn, bế tắc: số người thất nghiệp đông, tiền tệ lạm phát, thị trường hỗn loạn. Có lúc như giai đoạn chiến tranh cục bộ - có vẻ phồn vinh nhưng giả tạo. Do đó, những di sản nặng nề của chế độ thực dân mới đã gây nên nhiều khó khăn cho bước đường cải tạo và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của cả nước sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng sau này.

8.3.4. Kinh tế trong vùng giải phóng

* Chính sách kinh tế của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam:

Để xây dựng vùng giải phóng thành khu căn cứ cách mạng và hậu phương trực tiếp của toàn bộ công cuộc giải phóng miền Nam, về mặt kinh tế, mặt trận chủ trương bãi bỏ độc quyền kinh tế của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, xây dựng một nền kinh tế và tài chính độc lập tự chủ, lợi cho quốc kế dân sinh, tịch thu tài sản của đế quốc Mỹ và tay sai làm tài sản quốc gia. Giúp đỡ cho công thương gia khôi phục và khuếch trương công nghệ và tiểu công nghệ, khuyến khích phát triển kĩ nghệ, tích cực bảo vệ hàng

hóa bằng cách bãi bỏ thuế sản xuất, hạn chế hoặc đình chỉ nhập cảng, hàng hóa trong nước sản xuất được giảm thuế, nhập cảng nguyên liệu, máy móc.

Chấn hưng nông nghiệp, canh tân nghề trồng lúa, nghề cá và chăn nuôi. Giúp đỡ cho nông dân khai hoang và phát triển sản xuất, bảo vệ mùa màng, đảm bảo tiêu thụ nông sản.

Khuyến khích và đẩy mạnh việc giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, phát triển buôn bán với nước ngoài, không phân biệt chế độ chính trị theo nghuyên tắc bình đẳng cùng có lợi.

* Đặc điểm tình hình kinh tế:

- Giải quyết ruộng đất cho nông dân và đẩy mạnh tăng gia sản xuất nông nghiệp

Mặt trận dân tộc giải phóng đã thực hiện giảm tô, đảm bảo quyền sở hữu đất đai khai hoang cho người có công khai phá, bảo vệ quyền sở hữu chính đáng về ruộng đất đã được chia của nông dân, tịch thu ruộng đất của đế quốc Mỹ và tay sai để chia cho nông dân nghèo không có ruộng đất hay thiếu ruộng đất, chia lại công điền cho công bằng, hợp lý.. Nhà nước mua lại ruộng đất của điền chủ có từ mức độ nào đó tùy theo địa phương để chia cho nông dân không có hoặc thiếu ruộng đất.

Ngày 3 tháng 3 năm 1962 mặt trận lại bổ sung chính sách ruộng đất như sau: thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất của tất cả những địa chủ nào hiện nay không làm tay sai gian ác cho đế quốc Mỹ và bọn tay sai chung thành của chúng, nhưng họ phải thực hiện chính sách ruộng đất hiện nay cuả mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là “giảm tô” và đảm bảo quyền nguyên canh cho tá điền.

Vùng giải phóng được mở rộng đến đâu thì chính sách ruộng đất của mặt trận được thực hiện đến đó. Đến cuối năm 1965 đầu năm 1966, tổng số ruộng đất về tay nông dân đã lên tới gần 2 triệu ha, số thóc, giảm tô đạt được 200.000 tấn. Đó là một trong những thành tựu kinh tế quan trọng của cách mạng miền Nam.

Ở những nơi đã cải cách ruộng đất, mặt trận đã khuyến khích nông dân vào làm ăn tập thể, theo các hình thức: phân công, đổi công, hợp công, tập đoàn sản xuất với quy mô từ 20 - 25 hộ, có vùng đạt tới 80 - 90% nông hộ tham gia. Đồng thời mặt trận còn phát động phong trào khai hoang, tăng vụ, làm thủy lợi kết hợp với cải tạo địa hình để phục vụ sản xuất và chiến đấu như: “tay cày tay sung, quyết thắng giặc Mỹ”, vừa sản xuất tự cấp, tự túc vừa đánh giặc, vừa bảo đảm công tác chuyên môn” được phát động rộng rãi. Do đó, sản lượng lúa năm 1965 bằng 240% năm 1962, năng suất lúa đạt trung bình là 3 tấn/ha.

- Công nghiệp quốc phòng và thủ công nghiệp.

Sau khi hình thành vùng giải phóng, Mặt trận đã vận động một số thợ rèn, thợ mộc đưa lên miền núi giúp đồng bào thiểu số sản xuất công cụ cải tiến như: cày, cuốc, rựa, guồng,…Nhiều xưởng sửa chữa, sản xuất vũ khí đạn dược, sản xuất thuốc men,

quần áo, giấy viết, nông cụ,…được thành lập. Mặt trận đã thành lập những xưởng lớn sản xuất vũ khí như mìn chống xe tăng…Ngoài ra ở một số xã hoặc liên xã cũng có trạm sữa chữa, sản xuất súng ngựa trời, súng phóng lửa, bàn chông…

Ở các tỷnh đều có cơ sở sửa chữa máy chữ, máy in, máy thu thanh; phát triển nghề dệt, nghề rèn, nấu quặng. Đối với các nghề như: đồ gốm, làm nón, xà phòng, làm giấy, làm chiếu…cũng được khôi phục.

Nhiều nơi các cơ quan, đơn vị bộ đội đã thành lập xưởng may quần áo tự túc. Ở Miền Trung Trung Bộ, mặt trận còn xây dựng và quản lý trực tiếp một số ngành như là giấy, dệt và nông cụ…

- Thương nghiệp, tài chính

Từ năm 1963, trong vùng giải phóng, mặt trận đã tổ chức mậu dịch quốc doanh, các trạm tiếp liệu để mua của nhân dân các hàng hóa lâm thổ sản và cung cấp cho nhân dân những hàng hóa cần thiết như muối, vải, nông cụ…

Đế quốc Mỹ và Ngụy quyền chủ trương bao vây phong tỏa kinh tế của vùng giải phóng. Nhưng trong thực tế, ngụy quyền lại phải dựa vào vùng nông thôn để vơ vét lúa, gạo, than để tiêu thụ hàng viện trợ.

Mặt trận khuyến khích họp chợ, khai thông luồng hàng giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm và ban hành chính sách tự do đi lại mua bán và giáo dục nhân dân hạn chế tiêu dùng hàng xa xỉ của đế quốc nhập vào. Do đó, doanh số bán lẻ ở vùng đồng bằng và miền núi năm 1965 bằng 1.000% năm 1963. Qua đó đã làm cho các vùng giải phóng quan hệ chặt chẽ với nhau về mặt kinh tế, góp phần vào việc xây dựng nền kinh tế tự cấp, tự túc, đẩy mạnh sản xuất và cung cấp hàng tiêu dùng cho nhân dân.

Trong những năm 1960 - 1961 nguồn thu của mặt trận chủ yếu dựa vào sự đóng góp tự nguyện của nhân dân, dưới các hình thức lạc quyên, quỹ nuôi quân, khao quân giải phóng về làng, ủng hộ gia đình thương binh liệt sĩ ...Năm 1962, Mặt trận bắt đầu thu đảm phụ, Từ năm 1963 trở đi các khoản đóng góp đã trở thành nghĩa vụ của toàn dân: thu thuế nông nghiệp, ngoài ra còn có các khoản thu khác: theo chuyến hàng xuất nhập, thu về sản xuất đồn điền, bán tài sản quốc gia và bán chiến lợi phẩm.

Còn về chi tiêu, ở vùng giải phóng nhằm thực hiện khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”, thực hành tiết kiệm có thu mới có chi.

Mặc dù ở trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, gian nan nền kinh tế trong vùng giải phóng cũng đã đạt được những thắng lợi quan trọng, góp phần đáng kể về việc giải quyết vấn đề “hậu cần tại chỗ”, đánh bại chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.

8.4. Kinh tế Việt Nam thời kỳ 10 năm đầu sau khi đất nước thống nhất (1976 – 1985)

8.4.1. Đặc điểm tình hình và đường lối phát triển kinh tế

* Đặc điểm tình hình

- Những khó khăn

Cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ. Tính chất sản xuất nhỏ thể hiện rò nét ở các mặt như: cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ yếu, đại bộ phận lao động vẫn còn là thủ công, phân công lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp, tình trạng tổ chức và quản lý kinh tế còn thiếu chặt chẽ, việc kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân còn yếu, nền kinh tế còn bị mất cân đối nghiêm trọng.

Không những thế, nền kinh tế còn phải chịu hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh ác liệt và ở miền Nam lại còn có nhiều tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây nam và phía Bắc cũng đã gây ra cho ta nhiều khó khăn hơn nữa trong công cuộc xây dựng nền kinh tế của đất nước.

Trên trường quốc tế, chúng ta cũng có những khó khăn nhất định: cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đang diễn ra gay go quyết liệt. Đế quốc Mỹ và các thế lực phản động thực hiện bao vây kinh tế đối với nước ta. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thắng lợi, nhiều khoản viện trợ không hoàn lại hầu như không còn nữa. Sự hợp tác kinh tế với nước ngoài đều được tiến hành trên cơ sở có đi có lại, cùng có lợi giữa các bên.

- Những thuận lợi

Tổ quốc ta đã được hòa bình, độc lập, thống nhất. Nhân dân phấn khởi, hai miền có thể hỗ trợ được cho nhau trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và đem lại những thành tựu cực kỳ to lớn trong sự phát triển kinh tế của các nước. Những điều đó đã có ảnh hưởng to lớn đến công cuộc xây dựng kinh tế ở nước ta.

* Đường lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ này

Đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV đề ra như sau: “đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cư cấu inh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng”.

Nhiệm vụ chung của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) là vừa phải giải quyết những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh và của chủ nghĩa thực dân mới, vừa phải tổ chức lại nền kinh tế vốn nghèo nàn lạc hậu, xây dựng một bước nền sản

xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả nước, đặt nền móng cho sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà.

Tập trung cao độ lực lượng của cả nước tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm; cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, tạo tích lũy cho công nghiệp hóa XHCN.

Phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí, tích cực mở mang giao thông vận tải, tăng nhanh năng lực xây dựng cơ bản, đẩy mạnh công tác khoa học kỹ thuật.

Sử dụng hết lực lượng lao động xã hội, hình thành bước đầu cơ cấu kinh tế mới công - nông nghiệp, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, từng bước xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông- công nghiệp, kết hợp kinh tế với quốc phòng.

Hoàn thành về cơ bản cải tạo XHCN ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc.

Tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.

Ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, tiến hành cải cách giáo dục, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật.

Thực hiện một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức và quản lý kinh tế.

Đại hội V của Đảng đã xác định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt.

Những mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát của những năm 80 đã được đại hội V xác định như sau: Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo; Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh trật tự.

8.4.2. Thực trạng nền kinh tế nước ta 1976 – 1985

Trong thời kỳ này, tuy có nhiều khó khăn trở ngại, nhưng cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: tiếp tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cải tạo XHCN ở miền Nam, phát triển thêm một bước lực lượng sản xuất trong cả nước. Hàng trăm công trình xây

dựng tương đối lớn về các mặt công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, văn hóa xã hội... đã được xây dựng trên khắp các miền của đất nước.

* Cải tạo và phát triển nông nghiệp.

- Cải tạo quan hệ sản xuất: Trước hết là vấn đề củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc. Do có sự khủng hoảng của mô hình tập thể nông nghiệp trong giai đoạn (1976 - 1980) nên tháng 1 năm 1981 Ban Bí thư trung ương đã ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động.

Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động là một hình thức quản lý tiến bộ, thích hợp với điều kiện lao động của ta - chủ yếu còn là thủ công và là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Nam, một vấn đề quan trọng được đặt ra trước hết là việc xóa bỏ những tàn dư của chế độ thực dân và phong kiến về ruộng đất, giải quyết tốt vấn đề tranh chấp ruộng đất .

Ở miền Nam nước ta, sau khi được giải phóng, quan hệ sở hữu ruộng đất đã biến đổi sâu sắc, đại bộ phận ruộng đất đã về tay nông dân; quan hệ sản xuất phong kiến không còn là trở lực lớn trên con đường tiến lên của xã hội miền Nam. Do đó, ở đây chúng ta không cần tiến hành cải cách ruộng đất như ở miền bắc mà chủ yếu là việc xóa bỏ những tàn dư thực dân và phong kiến về ruộng đất.

Còn ở Nam bộ, đến cuối năm 1979 các địa phương đã xây dựng được 13.246 tập đoàn sản xuất. Nhưng rồi vì làm ồ ạt không chuẩn bị tốt, nhất là việc điều chỉnh ruộng đất chưa được giải quyết hợp lý và do có thiên tai nên có trên 4.000 tập đoàn sản xuất gặp khó khăn và dần dần bị tan rã. Để uốn nắn lại tình hình, Ban bí thư đã ra chỉ thị số 93 nhấn mạnh tinh thần tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp Nam bộ. Và đến cuối năm 1980 phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở đó dần dần đi vào ổn định và ngày càng tiến lên những bước mới.

- Phát triển nông nghiệp:

Trong thời kỳ này, Nhà nước đã thực hiện chủ trương khai hoang, phục hóa, tăng vụ, diện tích gieo trồng đã được tăng thêm 1.5 triệu ha, đã cung ứng thêm cho nông nghiệp gần 10.000 máy kéo các loại, đưa tỷ lệ cơ giới hóa làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Diện tích trồng rừng đạt 500.000 ha, thêm gần 1 triệu ha được tưới nước.

Trên cơ sở đó, sản xuất nông nghiệp thời kỳ này được phát triển một bước quan trọng. Nét nổi bật nhất của việc thực hiện 2 kế hoạch 5 năm này là việc tạo ra sự chuyển biến bước đầu của nông nghiệp. Gía trị tổng sản lượng nông nghiệp năm 1980 đạt 108.2% so với năm 1976 bình quân hàng năm đạt 1.9%; lương thực năm 1980 đạt

14.4 triệu tấn, bình quân đầu người đạt 184 kg. Năm 1985 giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 126.9% so với năm 1980, bình quân hàng năm tăng 4.9%; lương thực đạt

Xem tất cả 162 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí