3.2.2.2 Nội dung cơ bản trong học thuyết kinh tế của W.Petty
a. Lý luận về giá trị lao động
Trong tác phẩm “bàn về thuế khóa và lệ phí W.Petty đã nghiên cứu giá cả. Ông chia làm 2 loại: giá cả chính trị (giá cả thị trường) và giá cả tự nhiên (tức giá trị) theo ông giá cả chính trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngẫu nhiên nên khó xác định.
Vậy giá cả tự nhiên là gì? Ông cho rằng với một thời gian lao động khi khai thác được 1 ounce bạc và cũng thời gian đó sản xuất được 1 barrel lúa mỳ là cơ sở để so sánh giá trị của chúng. Như vậy giá cả của một barrel lúa mỳ bằng một ounce bạc. Nếu cùng một số lượng lao động như trên mà khai thác được 2 ounce bạc thì 1 barrel lúa mỳ trị giá bằng 2 ounce bạc.
Như vậy (theo K.Marx) về thực chất Petty đã xác định giá trị hàng hóa bằng số lượng lao động hao phí, Ngoài ra ông còn xác định mối quan hệ phụ thuộc giữa giá trị và năng suất lao động (trong trường hợp này giá trị tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác bạc). Ngoài ra W.Petty còn có ý định đặt vấn đề nghiên cứu lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng không thành.
- Tóm lại : W.Petty là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết giá trị - lao động. Ông đã khẳng định lao động là cơ sở của giá cả tự nhiên, lao động sản xuất giữ vai trò chủ yếu trong việc tạo ra của cải cho xã hội. Ông đã đưa ra một nguyên lý nổi tiếng “lao động là cha còn đất đai là mẹ của của cải”
Tuy vậy lý luận giá trị - lao động của W.Petty còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng CNTT. Ông chỉ thừa nhận lao động khai thác bạc là nguồn gốc của giá trị, còn giá trị của các hàng hóa khác chỉ được xác định nhờ quá trình trao đổi với bạc. Theo ông giá trị của hàng hóa chính là sự phản ánh giá trị của tiền tệ cũng như ánh sáng của mặt trăng là sự phản chiếu của ánh sáng mặt trời. Hơn nữa ông còn mắc sai lầm là đã xác định giá trị của hàng hóa do hai yếu tố: lao động và tự nhiên tạo thành.
b. Lý luận về tiền tệ:
- Ông đã phê phán tư tưởng của CNTT về tiền tệ. Ông nói rằng: Tiền tệ không phải lúc nào cũng là tiêu chuẩn của sự giàu có, nếu đánh giá quá cao tiền tệ là sai lầm.
- Ông nghiên cứu hai thứ kim loại giữ vai trò của tiền là vàng và bạc, xác định giá trị của chúng là do lao động bỏ vào việc khai thác ra chúng quyết định. Ông phê phán chế độ song bản vị lấy vàng và bạc là đơn vị tiền tệ và ủng hộ chế độ đơn bản vị. Ông chống lại việc phát hành tiền không đủ giá và cho rằng làm như vậy Nhà nước không có lợi gì vì khi đó giá trị tiền tệ đã giảm xuống.
Có thể bạn quan tâm!
- Lịch sử các học thuyết kinh tế - 2
- Đặc Điểm Chủ Nghĩa Trọng Thương Một Số Nước
- Học Thuyết Về Lao Động Sản Xuất Và Lao Động Không Sinh Lời
- Năng Suất Lao Động Sản Xuất Vải Và Lúa Mỳ Của Anh Và Mỹ
- Năng Suất Lao Động Sản Xuất Vải Và Lúa Mỳ Của Anh Và Mỹ
- Tiền Đề Kinh Tế Xã Hội Và Đặc Điểm Htkt Tiểu Tư Sản.
Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.
- Ông là người đầu tiên đưa ra quy luật lưu thông tiền tệ mà nội dung của nó là số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông được xác định trên cơ sở số lượng hàng hóa và tốc độ chu chuyển của tiền tệ, ông còn chỉ ra sự ảnh hưỏng của thời gian thanh toán
với số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông, thời hạn thanh toấn càng ngắn thì số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông càng nhiều.
c. Lý luận về tiền lương
Lý luận về tiền lương của W.Petty được xây dựng trên cơ sowr lý luận giá trị - lao động. Ông coi lao động là hàng hóa và tiền lương là giá cả tự nhiên của lao động.
- Petty xác định tiền lương là khoản giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết nuôi sống người công nhân. Ông cho rằng nếu tiền lương cao thì công nhân thích uống rượu, hay bỏ việc, muốn cho công nhân làm việc phải có biện pháp hạ thấp tiền lương tới mức tối thiểu nhất.
Như vậy, quan niệm của W.Petty về tiền lương phản ánh trình độ phát triển ban đầu của CNTB. Lúc này sản xuất máy móc chưa phát triển nên chưa tạo ra được sự phụ thuộc hoàn toàn của lao động vào tư bản, giai cấp tư sản phải dựa vào Nhà nước để duy trì mức lương thấp.
- Petty còn phân tích mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa tiền lương và giá cả lúa mỳ. Ông cho rằng tiền lương tỷ lệ ngịch với giá cả lúa mỳ (giá trị tư liệu sinh hoạt). Mặc dù còn có sai lầm nhưng Petty đã nêu được cơ sở khoa học của tiền lương là giá trị của các tư liệu sinh hoạt.
d. Lý luận về địa tô , lợi tức và giá cả ruộng đất.
W.Petty coi địa tô là phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí sản xuất, mà chi phí này gồm chi phí về giống và tiền lương. Khi phân tích về địa tô ông không trực tiếp nói đến sự bóc lột nhưng ông nói rằng: người công nhân chỉ nhận được một số lượng tiền lương tối thiếu, phần còn lại là vốn và số chênh lệch vào túi địa chủ dưới hình địa tô thì chứng tỏ ông thừa nhận nguồn gốc của địa tô là do bóc lột .
K. Marx cho rằng W.Petty là người đầu tiên đã nêu ra mầm mống của lý luận về chế độ bóc lột đã dự đoán đúng đắn bản chất của giá trị thặng dư .
- W.Petty phân tích lợi tức gắn liền với địa tô, theo ông nếu có tiền có thể mang lại thu nhập bằng hai cách. Thứ nhất, là dùng tiền mua đất đai để thu địa tô. Thứ hai, là mang gửi vào ngân hàng để thu lợi tức. W.Petty coi lợi tức là tô của tiền, nó lệ thuộc vào mức địa tô (mà người ta có thể dùng tiền đó để mua đất), cũng có nghĩa là mức lợi tức cao hay thấp phụ thuộc vào điều kiện sản xuất nông nghiệp.
- Vấn đề giá cả ruộng đất là một vấn đề phức tạp W.Petty đã cố gắng dùng lý luận giá trị - lao động để giải thích vấn đề này. Ông cho rằng bán ruộng đất là bán quyền thu tô. Vì vậy, giá cả ruộng đất đo địa tô quyết định. Ông đưa ra công thức tính giá cả ruộng đất là: giá cả ruộng đất = địa tô x 20
Con số 20 là ông dựa vào kinh nghiệm thống kê để xác định. Ông giả định rằng một gia đình có 3 thế hệ. Con 7 tuổi, cha 27, ông 47 tuổi, Họ cách nhau 20 tuổi và con
có thể tiếp tục chung sống với nhau 20 năm nữa, do đó ông đã lấy số 20 để tính giá cả ruộng đất. Đây là điều không đúng.
Tóm lại, mặc dù các quan điểm của W.Petty còn chưa thống nhất, đang chuyển dần từ CNTT sang KTCT TSCĐ nhưng ông đã có nhiều đóng góp quan trọng cho khoa học kinh tế. Ông là người đầu tiên đặt nền móng cho lý luận giá trị .
Ông đã cố gắng dùng lý luận giá trị - lao động để xem xét các vấn đề kinh tế khác của XHTBCN. Các nhà KTCT họ sau này dù tán thành hay phản đối ông, đều lấy ông làm điểm xuất phát.
3.2.3. Adam Smith
3.2.3.1. Tiểu sử, tác phẩm và phương pháp luận của A.Smith
Adam Smith (1723- 1790) đã mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển KTCT học tư sản, Ông xuất thân từ một gia đình viên chức thuế quan. Sau khi tốt nghiệp đại học, 13 năm ông đã giảng dạy về thần học, văn học, luận lý học, lôgic học, luật học và chính trị, trong đó có đề cập đến các vấn đề về kinh tế chính trị. Năm 1763 ông ngừng giảng dạy và đi du lịch Châu Âu ở Pháp ông đã gặp nhiều nhà trọng nông chủ nghĩa. Sau đó ông trở về nước và viết tác phẩm nổi tiếng của đời mình là “Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc của cải các nước”, xuất bản năm 1776.
K. Marx coi Smith là nhà kinh tế học tổng hợp của thời kỳ công trường thủ công. Ông còn là nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản muốn thủ tiêu tàn tích của xã hội phong kiến, mở đường CNTB phát triển. Ông kêu gọi tích lũy và phát triển lực lượng sản xuất theo ý nghĩa tư sản. Ông cho rằng chỉ có TBCN là một xã hội bình thường. Theo Smith biểu hiện của xã hội bình thường là xã hội có những quan hệ đẻ ra trên cơ sở phụ thuộc về kinh tế, gắn liền với sản xuất và trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc tự do mậu dịch, tự do cạnh tranh .
Học thuyết về “trật tự tự nhiên” của Smith xuất phát từ con người, Ông cho rằng con người bình đẳng với nhau từ khi mới ra đời, con người giúp đỡ và tác động lẫn nhau dựa trên hai cơ sở , tình yêu và sự ích kỷ , trong đó ích kỷ là cái mạnh hơn làm nảy sinh tư tưởng “hãy đưa cho tôi cái tôi cần, còn tôi sẽ đưa cho anh cái mà anh cần”. Từ đó Smith rút ra kết luận: con người có bản năng trao đổi từ khi sơ sinh, do vậy một xã hội tự do trao đổi, tự do mậu dịch tự do cạnh tranh là hợp quy luật tự nhiên.
Trên cơ sở thuyết “trật tự tự nhiên” Smith đã đưa ra một số tư tưởng có giá trị. Ông cho rằng quy luật kinh tế có thể kìm hãm hay thúc đẩy quy luật kinh tế. Theo ông Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế. Nhà nước có thể thực hiện các chức năng kinh tế khi nhiệm vụ này vượt qua sức của một doanh nghiệp như xây dựng đường xá, sông đào và các công trình lớn khác.
Thế giới quan của Smith chủ yếu là duy vật ông thừa nhận quy luật khách quan và phân tích một cách khoa học nhiều hiện tượng kinh tế xã hội. Nhưng chủ nghĩa duy vật của ông còn mang tính tự phát máy móc, xa lạ với phép biện chứng.
Phương pháp luận của Smith là phương pháp hai: Khoa học và tầm thường . Nhận xét về điều này K. Marx đã viết; Chính A. Smith đã ngây thơ rơi vào một mâu thuẫn thường xuyên. Một mặt ông quan sát mối liên hệ bên trong của các phạm trù kinh tế hoặc cơ cấu bi che lấp của hệ thống kinh tế tư sản . Mặt khác, ông lại đặt mối liên hệ đó như môi liên hệ bề ngoài hiện tượng cạnh tranh và do đó ông xa lạ đối với khoa học… Hai phương pháp nhận thức đó - một phương pháp đi sâu vào mối liên hệ bên trong của chế độ tư sản và có thể nói là đi sâu vào cơ cấu sinh lý của nó, một phương pháp khác chỉ mô tả liệt kê theo kiểu thuật lại những định nghĩa các khái niệm có tính chất công thức về những các biểu hiện bên ngoài quá trình cuộc sống dưới hình thức bề ngoài nó. Hai phương pháp nhận thức đo của Smith không những sống yên ổn bên nhau mà còn soắn xuýt lấy nhau và thường xuyên mâu thuẫn với nhau.
Phương pháp hai mặt của A. Smith có ảnh hưởng sâu sắc đến KTCT học tư sản sau này.
3.2.3.2. Hệ thống lý luận kinh tế của A.Smith
a. Lý luận về phân công lao động
Là nhà kinh tế học của thời kỳ công trường thủ công nên Smith đã chú trọng phân tích sự phân công lao động. Ông cho rằng tài sản của xã hội phụ thuộc vào hai nhân tố: Thứ nhất, là tỷ lệ lao động làm việc trong nền sản xuất vật chất, thứ hai là trình độ phát triển của sự phân công lao động A. Simth còn chỉ ra những tác dụng to lớn của phân công lao động và đảm bảo chuyên môn hóa và hoàn thiện về kỹ thuật, tiết kiệm được thời gian chuyển từ việc này sang việc khác, dễ dàng áp dụng máy móc, tuy vậy ông đã giải thích sai lệch nguyên nhân của sự phân công là do khuynh hướng muốn trao đổi của con người chưa phân biệt rò phân công lao động xã hội với phân công trong công trường thủ công.
b. Lý luận về tiền tệ:
- A. Smith đã hiểu được bản chất hàng hóa của tiền, coi tiền là một thứ hàng hóa tách ra là “bánh xe vĩ đại của lưu thông” là “công cụ đặc biệt của trao đổi thương mại”.
Nhưng A.Smith cho rằng tiền chỉ là phương tiện kỹ thuật làm cho việc trao đổi được thuận tiện, ông so sánh tiền tệ với con đường rộng lớn trên đó người ra chở cỏ khô và lúa mì, bản thân con đường không làm tăng thêm cỏ khô và lúa mì.
Như vậy, A.Smith chưa đánh giá đúng tiền tệ, chỉ coi tiền tệ là vật mối giới giản
đơn.
- Về quy luật lưu thông tiền tệ, A.Smith cho rằng không phải số lượng tiền tệ quyết định, giá cả mà giá cả quyết định số tiền tệ.
Ông còn nhấn mạnh rằng số lượng tiền tệ được quyết định bởi số lượng hàng hóa mà nó phải lưu thông
Tóm lại, lý luận về tiền tệ của A.Smith còn hạn chế, ông đã đơn giản hóa nhiều chức năng của tiền tệ, chỉ chú ý nhiều đến chức năng phương tiện lưu thông. Cũng mhư nhiều nhà kinh tế khác ở thế kỷ XVII, A.Smith đã biết tiền là hàng hóa nhưng chưa hiểu vì sao hàng hóa lại biến thành tiền.
c. Lý luận về giá trị - lao động
- Công lao to lớn của A.Smith là ở chỗ ông đã phân biệt sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khẳng định rằng giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi.
Ông nhấn mạnh sự ích lợi không có quan hệ gì đến giá trị trao đổi, không khó và nước rất có ích nhưng không có chút giá trị nào. Giá trị trao đổi do lao động quyết định.
- A.Smith đã nghiên cứu mối quan hệ giữa giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Theo ông giá cả tự nhiên là trung tâm. Giá cả thị trường là giá cả thực tế của hàng hóa, giá cả này nhất trí với giá cả tự nhiên khi cung bằng cầu. Nhưng sự biến động của cung cầu làm cho giá cả thị trường chênh lệch với giá cả tự nhiên, còn bản thân giá cả tự nhiên cũng thay đổi cùng với tỷ xuất tự nhiên của mỗi bộ phận cấu thành nó.
- Tuy nhiên, lý luận giá trị - lao động của A. Smith còn nhiều hạn chế. Điểm nổi bật là ông chưa nhất quán khi định nghĩa giá trị.
Ông nêu ra hai định nghĩa giá trị:
+ Thứ nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hóa quyết định, lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này ông là người đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động.
+ Thứ hai, theo ông giá trị một hàng hóa bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ hàng hóa đó. Đây là định nghĩa sai lầm.
Từ định nghĩa này ông suy ra giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hóa giản đơn, còn trong CNTB giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành nó bằng tiền lương cộng với lợi nhuận và địa tô. Như vậy A. Smith đã lẫn lộn giữa hai vấn đề, hình thành giá trị và phân phối giá trị trong CNTB. Những sai lầm của A. Smith là do phương pháp hai mặt của ông trong quá trình nghiên cứu .
d. Lý luận về thu nhập
Công lao của A. Smith là đã dựa trên sự sở hữu để chia xã hội tư bản thành 3 giai cấp: những người chiếm hữu ruộng đất, các nhà tư bản công nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp, giai cấp công nhân làm thuê.
Mỗi giai cấp nhận được một bộ phận thu nhập tương ứng từ tổng thu nhập của xã hội. Giai cấp chiến hữu ruộng đất nhận được địa tô, giai cấp các nhà tư bản nhận được lợi nhuận, công nhân nhận được tiền lương.
Lý luận về tiền lương, lợi nhuận địa tô của A. Smith được xây đựng trên cơ sở lý luận giá trị - lao động. Theo ông trong giá trị của hàng hóa do người công nhân tạo ra thì anh ta chỉ nhận được một phần gọi là tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi nhuận của tư bản.
- Lý luận về địa tô:
+ A. Smith cho rằng địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm lao động.
+ Về mặt lượng đó là khoản dôi ra ngoài tiền lương của công nhân và lợi nhuận của tư bản nông nghiệp.
+ Về mặt chất nó phản ánh quan hệ bóc lột.
+ Ông đã phân biệt dứt khoát tiền tô với địa tô, ông xem tiền tô có địa tô và lợi tức của tư bản chi phí vào cải tạo đất đai.
+ Về mức địa tô A. Smith khẳng định - địa tô của một mảnh ruộng do phần thu nhập của mảnh ruộng đó mang lại và địa tô trên ruộng đất canh tác cây xấu nhất quyết định địa tô trên ruộng đất, trồng cây khác.
Tuy nhiên , lý luận địa tô của A. Smith còn nhiều hạn chế: ông coi địa tô là phạm trù vĩnh viễn ông chưa nghiên cứu địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối. Ông chưa hiểu sự chuyển hóa lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô, cho rằng năng suất lao động trong nông nhiệp cao hơn trong công nghiệp là do có sự giúp đỡ của tự nhiên .
- Lý luận về lợi nhuận:
+ Theo A. Smith lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm của lao động, nguồn gốc của lợi nhuận là bóc lột lao động làm thuê.
+ Ông còn chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận đẻ ra từ lợi nhuận.
+ A. Smith còn nhìn thấu xu hướng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận do cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận khi khối lượng tư bản đầu tư tăng lên .
Tuy vậy, A. Smith chưa thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư, ông chưa hiểu sự chuyển hóa của giá trị thành giá cả sản xuất.
- Lý luận về tiền lương:
+ A. Smith cho rằng trong các xã hội trước CNTB người lao động làm việc bằng tư liệu sản xuất ruộng đất của mình thì họ nhận được sản phẩm toàn vẹn, tức tiền lương ngang bằng với sản phẩm toàn vẹn, tức tiền lương ngang bằng với sản phẩm lao động. Còn trong CNTB công nhân là người làm thuê, chỉ nhận được một phần giá trị sản phẩm lao động của mình.
+ Cơ sở của tiền lương là giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta, nên theo ông nếu hạ thấp tiền lương tới mức tối thiểu là thảm hoạ cho sự tồn tại của dân tộc.
+ A. Smith còn nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương như cung cầu về lao động, quy mô đầu tư tư bản, tính hình phát triển kinh tế của từng nước… Tuy nhiên, A. Smith có hạn chế coi tiền lương là giá cả của lao động.
e. Lý luận về tư bản
+ A. Smith coi rằng vật phẩm tiêu dùng không là tư bản mà cũng không phải mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản, chỉ có tư liệu sản xuất do lao động tạo nên mới là tư bản, chỉ có bộ phận tài sản mang lại lợi nhuận mới là tư bản.
Như vậy, tư bản là những yếu tố điều kiện vật chất cần thiết cho sản xuất. Khi nghiên cứu về tư bản cố định và tư bản lưu động với tư bản lưu thông, làm mất tính sản xuất của tư bản lưu động.
+ Ông cho rằng: tư bản lưu động là tư bản mang lại thu nhập cho người chủ của nó, do kết quả của việc thực hiện, tiêu thụ hàng hóa, bao gồm tiền, lương thực dự trữ, nguyên liệu, hàng hóa trong kho ...
Tức là, ông đã hiểu tư bản lưu động với ý nghĩa hai mặt: khi thì gồm những yếu tố của tư bản sản xuất (như nguyên liệu) khi thì gồm những yếu tố của tư bản lưu thông (hàng hóa, tiền tệ …) trong khi đó ông không xếp sức lao động vào tư bản lưu động.
Tóm lại, phương pháp phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động của Smith không đúng đắn, không nhất quán, như K. Marx nhận xét “bước tiến bộ duy nhất của
A. Smith là ở chỗ làm cho các phạm trù tư bản trở thành phổ biến” .
f. Lý luận về tái sản xuất
Lý luận về tái sản xuất của A. Smith xây dựng trên cơ sở luận điểm cho rằng giá trị của hàng hóa bao gồm các nguồn thu nhập: tiền lương, lợi nhuận, địa tô. Tức là ông đã bỏ qua tư bản bất biến, bỏ qua phần giá trị tư liệu sản xuất đã được chuyển vào sản phẩm.
Vì vậy, lý luận về tái sản xuất của A. Smith đã không phân tích được sản xuất đơn giản vì toàn bộ phần thu nhập đã bị tiêu dùng hết cho nhu cầu cá nhân của công nhân và nhà tư bản. Đồng thời, lý luận đó cũng không phân tích được tái sản xuất mở rộng vì ông đã bỏ qua tư bản bất biến.
Khi nhận xét về nguyên nhân sai lầm của A. Smith , K. Marx đã chỉ ra rằng “ở đây A. Smith đã vấp phải một sự phân biệt rất quan trọng giữa công nhân sản xuất tư liệu sản xuất và công nhân trực tiếp sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tổng sản phẩm xã hội phải chia làm hai nhóm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, còn giá trị của sản phẩm bao gồm : c+v+m”.
Tóm lại, A. Smith đã đưa khoa kinh tế chính trị tư sản vào hệ thống, nhưng trên tất cả các vấn đề A. Smith đều có mâu thuẫn. Điều đó bắt nguồn từ phương pháp luận hai mặt của ông.
g. Tư tưởng tự do kinh tế - lý luận về "bàn tay vô hình”
Tư tưởng này chiếm giữ vị trí trung tâm trong học thuyết của A.Smith, nội dung cơ bản là đề cao vai trò của cá nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết của kinh tế thị trường, thực hiện tự do cạnh tranh, ủng hộ sở hữu tư nhân và Nhà nước không can thiệp vào kinh tế.
- Điểm quan trọng của lý thuyết này là Adam Smith đưa ra phạm trù con người kinh tế. Ông quan niệm khi chạy theo tư lợi thì “con người kinh tế” còn chịu sự tác động của “bàn tay vô hình”.
- “Bàn tay vô hình” là sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan, ông cho rằng chính các quy luật kinh tế khách quan là một “trật tự tự nhiên”. (Động lực thúc đẩy các chủ thể sản xuất tham gia quá trình sản xuất chính là lợi ích cá nhân, khi thỏa mãn lợi ích cá nhân thì các chủ thể sản xuất cũng sẽ thỏa mãn nhu cầu lợi ích của người khác và của xã hội)
- Để có sự hoạt động của trật tự tự nhiên thì cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là sự tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế.
- Ông đề nghị, cần phải tôn trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng “bàn tay vô hình”. Hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa cần phải được phát triển theo sự điều tiết của “bàn tay vô hình”. Xã hội muốn giàu có phải được phát triển kinh tế trên tinh thần tự do. Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế.
- Ông khẳng định, quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế của Nhà nước có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự hoạt động của quy luật kinh tế.
Tóm lại, lý thuyết “bàn tay vô hình” của A. Smith đã đề cao vai trò của các quy luật kinh tế khách quan trong điều tiết nền kinh tế thị trường, đề cao tính độc lập, tự chủ, sáng tạo và tinh thần tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh của các chủ thể kinh tế. Coi thị trường tự do là lực lượng, sức mạnh điều tiết sản xuất và tiêu dùng xã hội.
h. Lý thuyết về “Lợi thế tuyệt đối”
Adam Smith là người đưa lý thuyết về “lợi thế tuyệt đối”. Ông cho rằng “lợi thế tuyệt đối” của một quốc gia về một sản phẩm nghĩa là quốc gia đó sản xuất ra sản phẩm đó với các chi phí thấp hơn các nước khác.
Khác với CNTT cho rằng lợi nhuận là do lường gạt và trao đổi không ngang giá, theo A. Smith, trao đổi phải ngang giá. Nếu một bên thấy họ rơi vào thế bất lợi, họ sẽ không tham gia vào thương mại quốc tế.