Năng Suất Lao Động Sản Xuất Vải Và Lúa Mỳ Của Anh Và Mỹ

A. Smith phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng thương và chứng minh rằng mậu dịch sẽ giúp cả hai bên gia tăng gia sản, qua việc thực thi một nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc phân công.

Cơ sở mậu dịch giữa các quốc gia là căn cứ vào lợi thế tuyệt đối của các nước.

Ông cho rằng, việc buôn bán giữa các nước diễn ra trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước khi quốc gia này có lợi thế hơn quốc gia khác về sản xuất một loại hàng hóa nào đó, ngược lại quốc gia khác lại có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó, do đó khi tiến hành trao đổi cả hai nước đều có lợi ích cao nhất. Bởi vậy mỗi quốc gia phải biết chuyên môn hóa sản xuất loại hàng hóa mà họ có lợi thế hơn.

Ví dụ về lợi thế tuyệt đối:

- Giả định:

+ Chỉ có 1 yếu tố sản xuất duy nhất – lao động

+ Chi phí sản xuất là không đổi.

+ Lao động (yếu tố sản xuất) có thể tự do di chuyển trong khuôn khổ một quốc gia

+ Yếu tố sản xuất không di chuyển giữa các quốc gia.

+ Tất cả các nguồn lực sản xuất được sử dụng hoàn toàn.

+ Chỉ có 2 quốc gia tham gia thương mại quốc tế và trao đổi 2 mặt hàng.

+ Thương mại quốc tế hoàn toàn tự do.

+ Chi phí vận tải bằng 0.

Bảng 3.1: Năng suất lao động sản xuất vải và lúa mỳ của Anh và Mỹ


Năng suất lao động

Mỹ

Anh

Lúa mỳ (kg/ giờ)

6

1

Vải (m/ giờ)

2

4

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

Lịch sử các học thuyết kinh tế - 6


- Cơ sở mậu dịch:

+ Lợi thế thuyệt đối:

Mỹ có lợi thế tuyệt đối về sản xuất lúa mỳ (6>1). Anh có lợi thế tuyệt đối về sản xuất vải(2<4).

- Khi có thương mại:

+ Giả định tỷ lệ trao đổi: 1 lúa mỳ = 1vải

+ Khối lượng mậu dịch: 6 lúa mỳ = 6 vải

+ Mỹ và Anh trao đổi: 6 lúa mỳ với Anh lấy 6 vải.

- Kết quả:

+ Mỹ tiết kiệm được 2 giờ.

+ Anh tiết kiệm được 4,5 giờ.

Lý thuyết “lợi thế so sánh” của Adam Smith có rất nhiều giá trị nhưng đồng thời cũng còn nhiều hạn chế

- Giá trị:

+ Chỉ ra sự sai lầm của chủ nghĩa trọng thương về mậu dịch quốc tế:

+ Chứng minh được lợi ích của tất cả các quốc gia khi tham gia mậu dịch quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi.

- Hạn chế:

+ Lý thuyết lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần thương mại quốc tế vì theo lý thuyết này mậu dịch chỉ diễn ra khi mỗi quốc gia có lợi thế tuyệt đối về 1 sản phẩm. Nhưng trên thực tế không phải lúc nào ở một quốc gia cũng có lợi thế tuyệt đối khi so sánh với nước khác.

+ Chưa trả lời được tình huống nếu một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối về bất cứ sản phẩm nào thì thương mại có diễn ra hay không? Nếu diễn ra thì lợi ích của các quốc gia sẽ như thế nào?

Sau này chính Ricardo là người phát triển lý thuyết về lợi thế tuyệt đối để xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh .

i. Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư

sản

+ Ông phê phán tính chất ăn bám của bọn phong kiến quý tộc, theo ông các đại

biểu được kính trọng trong xã hội như nhà vua, sỹ quan, thầy tu... cũng giống như những người tôi tớ, không sản xuất ra một giá trị nào cả.

+ Ông phê phán chế độ thuế khóa độc đoán như thế đánh theo đầu người, chế độ thuế thân hà khắc.

+ Ông lên án chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền quý tộc, coi đó là thể chế “dã man” ngăn cản sự phát triển của hệ thống nông nghiệp.

+ Bác bỏ việc hạn chế buôn bán lúa mỳ vì nó gây khó khăn cho nông nghiệp.

+ Vạch rò tính chất vô lý về kinh tế của chế độ lao dịch và chứng minh tính chất ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê.

+ Ông kết luận: chế độ phong kiến là một chế độ “không bình thường”: là sản phẩm của độc đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con người, đó là một chế độ trái với trật tự ngẫu nhiên và mâu thuẫn với yêu cầu khoa học kinh tế chính trị.

Theo ông nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, tự do mậu dịch.

k. Phê phán chủ nghĩa trọng thương

+ Ông là người đứng trên lập trường của tư bản công nghiệp để phê phán chủ nghĩa trọng thương. Ông xác định đánh tan chủ nghĩa trọng thương là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất để đánh tan ảo tưởng làm giàu bằng thương nghiệp.

+ Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đề cao quá mức vai trò của ngoại thương và cách làm giàu bằng cách trao đổi không ngang giá. Ông cho rằng việc nâng cao tỷ suất lợi nhuận thương nghiệp bằng độc quyền thương nghiệp sẽ làm chậm việc cải cách sản xuất. Muốn làm giàu phải phát triển sản xuất.

+ Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế, ông cho rằng chức năng của nhà nước là đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù ... nhà nước có thể thực hiện chức năng kinh tế khi các chức năng đó vượt quá sức của chủ xí nghiệp riêng lẻ như xây dựng đường sá, sông ngòi và các công trình lớn khác. Theo ông, sự phát triển kinh tế là bình thường không cần có sự can thiệp của Nhà nước.

m. Phê phán chủ nghĩa trọng thương:

+ Mục tiêu phê phán của ông là đánh tan các ảo tưởng của phái trọng nông về tính chất đặc biệt của nông nghiệp, và phá vỡ những luận điểm kỳ lạ của họ về tính chất không sản xuất của công nghiệp.

+ Ông phê phán quan điểm của trọng nông coi giai cấp thợ thủ công, chủ công trường là giai cấp không sản xuất.

+ Ông đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh ngành công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất như luận điểm về năng suất lao động, tích lũy tư bản....

n. Lý luận về thuế khóa

+ Ông là người đầu tiên luận chứng cương lĩnh thuế khóa của giai cấp tư sản, chuyển gánh nặng thuế khóa cho địa chủ và tầng lớp lao động, ông xác định thu nhập của nhà nước có thể có từ hai nguồn:

Một là, từ quỹ đặc biệt của nhà nước, tư bản đem lại lợi nhuận, ruộng đất đem lại địa tô.

Hai là, lấy thu nhập của tư nhân bắt đầu từ nguồn gốc địa tô, lợi nhuận, tiền

công.


+ Ông đưa ra bốn nguyên tắc thu thuế:

Mọi người phải có nghĩa vụ với chính phủ, “tùy theo năng lực và khả năng của

mình”

Phần thuế mỗi người đóng phải được quy định một cách chính xác. Chỉ thu vào thời gian thuận tiện, với phương thức thích hợp.

Nhà nước chi ít nhất vào công việc thu thuế.

+ Ông đưa ra hai loại thuế phải thu là thuế trựu thu và thuế gián thu:

Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập: địa tô, lợi nhuận, tiền công và tài sản thừa kế.

Thuế gián thu, theo ông không nên đánh thuế vào các hàng hóa thiết yếu, nên đánh thuế vào những hàng hóa xa xỉ để điều tiết thu nhập của người “sống trung bình hoặc cao hơn trung bình”.

3.2.3 David Ricardo ( 1772 - 1823 )

3.2.3.1. Tiểu sử, hoàn cảnh lịch sử và phương pháp luận

D. Ricardo được sinh ra trong một gia đình giàu có, bố của ông là một trong những nhà tư bản có địa vị quan trọng trong sở giáo dục chứng khoán ở Châu Âu. Năm 12 tuổi Ricardo vào học trường trung học thương nghiệp 2 năm, sau đó ông làm việc trong lĩnh vực này nên ông đã trở thành một trong những người giàu có ở Anh.

Ông nghiên cứu nhiều lĩnh vực như toán học, vật lý học, hóa học... Ông say mê nghiên cứu kinh tế chính trị học, đã cho xuất bản nhiều tác phẩm trong đó nổi tiếng nhất là cuốn “ Những nguyên lý cơ bản của chính sách kinh tế và thuế khóa”(1817).

D. Ricardo được coi là nhà kinh tế chính trị của thời kỳ đại công nghiệp cơ khí. Nếu như A. Smith sống trong thời kỳ của công trường thủ công đã phát triển mạnh mẽ thì D. Ricardo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Vì vậy, D. Ricardo có điều kiện khách quan để vượt qua ngưỡng giới hạn trong lý luận kinh tế mà A. Smith đã dừng lại, đưa KTCT học tư sản tới đỉnh cao. K. Marx nhận xét rằng: D. Ricardo là người tận tâm vì khoa học nên tư tưởng kinh tế của ông có nhiều điểm tiến bộ so với tất cả các nhà kinh tế trước ông.

Về phương pháp luận của D. Ricardo, K. Marx nhận xét : “nếu như A. Smith còn dao động giữa phương pháp khoa học và tầm thường thì D. Ricardo nhất quán kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất thời gian lao động quyết định giá trị, tức là lấy lý luận giá trị lao động làm cơ sở cho toàn bộ học thuyết kinh tế của ông”.

D. Ricardo đứng trên lập trường duy vật (chủ nghĩa duy vật máy móc) để đi tìm tác quy luật kinh tế. Ông là người có tài sử dụng phương pháp trừu tượng trong khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế của CNTB, nắm được quy luật chi phối các hiện tượng đó.

Tuy vậy, ông còn nặng xem xét về mặt lượng, chưa thấy sự phát sinh phát triển của các phạm trù kinh tế, đôi khi còn có quan điểm phi lịch sử đến mức cho rằng công cụ đi săn của người nguyên thuỷ cũng là tư bản.

3.2.3.2. Hệ thống các quan điểm kinh tế của D.Ricardo

a. Lý luận về giá trị - lao động

- Ông phân biệt rò hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và chỉ rò giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi nhưng không phải là thước đo của nó. Trừ một số ít hàng hóa khan hiếm thì giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi.

- D. Ricardo đã soát xét lại lý luận giá trị của A. Smith, gạt bỏ những chỗ mâu thuẫn và không đúng. Chẳng hạn khi A. Smith có cách giải thích nước đôi về giá trị

:“Giá trị do lao động hao phí quyết định”, mặt khác, “giá trị bằng lao động người ta có thể mua được bằng hàng hóa đó quyết định”.

D. Ricardo cho rằng định nghĩa thứ hai của A.Smith là không đúng. Ông còn nhấn mạnhgiá trị do hao phí lao động quyết định, lao động là nguồn gốc của giá trị.

Nếu A. Smith cho rằng: giá trị do nguồn thu nhập hợp thành thì D. Ricardo nói rằng: ngược lại, giá trị được phân thành các nguồn thu nhập.

- Về kết cấu giá trị A. Smith đã bỏ C (tư bản bất biến) khỏi giá trị hàng hóa, thì Ricardo nói rằng giá trị hàng hóa không chỉ do lao động trực tiếp tạo ra mà còn là lao động trước đó nữa như máy móc, nhà xưởng … Tuy nhiên ông, mới chỉ biết có C1 và chưa phân tích được sự chuyển dịch của C vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào.

- Khi xem xét loại lao động nào quyết định giá trị trao đổi, D. Ricardo cho rằng: lao động xã hội cần thiết quyết định chứ không phải lao động cá biệt, song lại cho rằng lao động xã hội cần thiết do điều kiện sản xuất quyết định.

- Ông có ý kiến kiệt suất khi cho rằng giá trị của hàng hóa giảm khi năng suất lao động tăng (mối quan hệ giữa năng suất và giá trị hàng hóa), giá trị của hàng hóa không thể biểu hiện cách nào khác ngoài giá trị trao đổi. Những phạm trù lao động giản đơn, lao động phức tạp… ông đã đề cập vấn đề giá cả sản xuất nhưng chưa giải quyết được vấn đề này .

- Mặc dù lý luận giá trị - lao động của D. Ricardo đã có nhiều đóng góp tích cực, nhưng vẫn còn hạn chế ở chỗ ông đã giải thích giá trị một cách siêu hình, coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn, là thuộc tính của mọi vật thể.

Ông không biết đến tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, quan niệm chưa đầy đủ về kết cấu giá trị, chưa thấy sự phát triển của các hình thái giá trị.

K. Marx đã nhận xét: “Một trong những khuyết điểm cơ bản của khoa học kinh tế chính trị cổ điển là qua việc phân tích hàng hóa, và nhất là qua việc phân tích giá trị của hàng hóa nó chưa bao giờ tìm được cái hình thái giá trị đã làm cho giá trị trở thành giá trị trao đổi. Ngay cả với những đại biểu ưu tú nhất của nó là A. Smith và D. Ricardo, trường phái đó cũng chỉ coi hình thái giá trị như một cái gì nằm ngoài bản chất hàng hóa”.

b. Lý thuyết về tiền tệ

Vấn đề lưu thông tiền tệ chiếm vị trí quan trọng trong học thuyết kinh tế của D. Ricardo. Vào cuối thế kỷ XVIII ở nước Anh diễn ra việc đổi ngân phiếu lấy vàng. Số lượng tiền giấy tăng lên dẫn đến lạm phát, tiền mất giá và giá cả hàng hóa tăng lên. Trong ngân hàng diễn ra cuộc tranh luận gay gắt, trong bối cảnh đó D. Ricardo đưa ra lý luận về tiền tệ .

- Đặc trưng nổi bật trong lý luận tiền tệ của D. Ricardo là có tính hai mặt:

Một mặt, dựa trên cơ sở lý luận giá trị - lao động ông coi giá trị của tiền là do giá trị vật liệu làm ra tiền quyết định, nó bằng số lượng lao động hao phí để khai thác vàng, bạc. Ông nêu khái niệm giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Ông kết luận: với giá trị nhất định của tiền tệ, số lượng tiền trong lưu thông tuỳ thuộc vào tổng giá cả hàng hóa .

Mặt khác, ông lại sa vào lập trường của thuyết “số lượng tiền tệ” theo thuyết này giá trị của tiền phụ thuộc vào số lượng của nó. Nếu số lượng tiền càng nhiều thì giá trị của tiền càng thấp và ngược lại. Còn bản thân tiền tệ không có giá trị nội tại.

Như vậy, D. Ricardo đã lẫn lộn giữa quy luật lưu thông tiền giấy với lưu thông tiền vàng. Nguyên nhân sâu sa là ông chưa hiểu đầy đủ được nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ, ông chỉ coi tiền tệ là phương tiện kỹ thuật của lưu thông.

c. Lý luận về thu nhập

- Lý luận về tiền lương

+ Ricardo xem xét tiền lương mối quan hệ đối lập với lợi nhuận, ông nhận thấy quy luật trong xã hội tư bản: Khi năng suất lao động và phân tiền lương thành tiền lương tự nhiên và tiền lương thị trường. Giá cả của tư liệu sinh hoạt có ảnh hưởng đến tiền lương tự nhiên còn quan hệ cung cầu về lao động có ảnh hưởng đến tiền lương thị trường.

+ Như vậy, mặc dù xác định tiền lương là giá cả của lao động, nhưng ông cũng thấy rằng tiền lương bao gồm toàn bộ giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình họ.

+ Ông ủng hộ lý thuyết “Quy luật sắt về tiền lương” ông cho rằng tiền lương cần phải ở mức độ tối thiểu, coi đó là quy luật chung, tự nhiên của mọi xã hội. Ông lý giải: nếu tiền công cao sẽ làm cho nhân khẩu tăng nhanh, dẫn đến cung về lao động lớn hơn cầu về lao động, thì lại làm cho tiền công hạ xuống, đời sống của công nhân xấu đi là kết quả tất yếu của việc tăng nhân khẩu.

Tóm lại, lý luận về tiền lương của D. Ricardo còn hạn chế khi coi tiền lương là giá cả của lao động và xem xét tiền lương trong quan hệ với quy luật nhân khẩu .

- Lý luận về lợi nhuận

+ Ricardo xác định lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà TB trả cho công nhân, Ông chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư.

Nhưng, ông đã cho rằng lợi nhuận là một phần giá trị do công nhân tạo ra mà không được trả công tạo ra mà không được trả công.

+ Ông đã tiến gần đến lý luận về lợi nhuận bình quân và xu hướng giảm sút tỷ suất lợi nhuận, nhưng ông không giải thích được vì ông không biết đến cấu tạo hữu cơ tư bản, không phân biệt được tỷ suất giá trị thặng dư với tỷ xuất lợi nhuận.

Vì vậy, D. Ricardo đã mắc sai lầm khi giải thích sự giảm sút tỷ suất lợi nhuận là do tiền lương tăng, mà tiền lương tăng là do giá cả tư liệu sinh hoạt cần thiết (lúa mỳ), tăng giá cả lúa mỳ tăng là do dân số tăng quá nhanh, còn đất đai thì độ màu mỡ ngày giảm sút, tức là ông tìm nguyên nhân từ tự nhiên.

- Lý luận về địa tô

+ Điểm nổi bật trong lý luận về địa tô của D. Ricardo là ông đã giải thích địa tô trên quan điểm lý luận giá trị - lao động.

+ Ông lập luận rằng do “đất đai canh tác hạn chế”, độ màu mỡ đất đai giảm sút”, “năng suất đầu tư bất tương xứng” trong khi đó dân số tăng nhanh làm cho nạn khan hiếm tư liệu sinh hoạt là phổ biến… Vì vậy, buộc xã hội phải canh tác cả trên ruộng đất xấu nhất.

Giá trị của nông phẩm là do mức hao phí lao động trên ruộng đất xấu quy định, ruộng đất xấu không phải nộp tô, còn ruộng đất tốt người ta thu được số dưa thừa nên phải nộp tô.

Ông đi đến kết luận: địa tô là bằng chứng của sự bần cùng, địa chủ là tầng lớp ăn bám.

+ Cũng như A. Smith, D. Ricardo đã phân biệt địa tô với tiền tô. Địa tô là việc trả công cho khả năng thuần tuý tự nhiên. Ngoài địa tô, tiền tô còn bao gồm cả lợi nhuận do tư bản đầu tư vào ruộng đất.

+ Hạn chế trong lý luận địa tô của D. Ricardo là ở chỗ ông phủ nhận địa tô tuyệt đối, ông cho rằng nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối thì vi phạm quy luật giá trị. Mặt khác, ông cũng không đề cập đến địa tô chênh lệch II và ông đồng nhất nó với lợi nhuận của tư bản.

d. Lý luận về tư bản

- D. Ricardo cho rằng tư bản là những tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng để tiếp tục sản xuất. Đó là một phận của cải quốc gia dùng vào việc sản xuất, vào thức ăn đồ mặc, nguyên liệu máy móc … K. Marx đã nhận xét rằng: D. Ricardo xem xét khái niệm tư bản một cách hết sức phi lịch sử.

- D. Ricardo đã phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Bộ phận tư bản dùng đài thọ lao động là tư bản lưu động, còn bộ phận tư bản dùng để mua công cụ sản xuất nó tồn tạo vĩnh viễn và tư bản cố định. Ông còn nhấn mạnh, đặc điểm của tư bản cố định là sự lâu dài, vững chắc nó, không mang lại lợi nhuận .

Như vậy, về thực chất ông cũng chạm đến sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến, nhưng ông không hiểu vấn đề này. K. Marx đánh giá “Công lao to lớn của ông là đã phân chia sự khác nhau giữa tư bản lưu động và tư bản cố định và sự khác nhau trong thời gian chu chuyển của tư bản”.

e. Lý luận về tái sản xuất :

- D. Ricardo cho rằng chủ nghĩa tư bản sẽ phát triển mãi mãi chừng nào có lợi nhuận cao, lợi nhuận cao là yếu tố kích thích tích lũy. Ông lập luận rằng chủ nghĩa tư bản không có khó khăn về thị trường nên không khủng hoảng kinh tế, vì không có tư bản nào lại không tìm được nơi đầu tư, hơn nữa sản phẩm bao giờ cũng được trao đổi để lấy tiền, bán để mua, mua để bán, không có người nào lại tiếp tục sản xuất hàng hóa mà xã hội không cần đến.

- Nhưng thực tế D. Ricardo cũng cảm nhận được sự giảm sút của tỷ suất lợi nhuận và sự thu hẹp của sản xuất nhưng ông cho rằng có thể có sự khủng hoảng riêng lẻ chứ không thể có khủng hoảng kinh tế toàn bộ. D. Ricardo mất năm 1823 thì năm 1825 mới nổ ra khủng hoảng kinh tế đầu tiên của chủ nghĩa tư bản.

- Nguyên nhân hạn chế trong lý luận tái sản xuất của D. Ricardo là ở chỗ ông cũng như A. Smith đã bỏ ra qua tư bản cố định, không hiểu được ảnh hưởng của cấu tạo hữu cơ trong tích lũy tư bản, không thấy nguyên nhân sâu xa của mẫu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng trong xã hội tư bản.

g. Lý thuyết về lợi thế so sánh :

Trên cơ sở phát triển lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, Ông đã xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh, còn gọi là lý thuyết về chi phí so sánh, cụ thể:

- Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ “đường hai chiều” có lợi cho mọi nước tham gia, vì bất kỳ nước nào cũng có lợi thế tương đối, tức là lợi thế có được trên cơ sở so sánh với các nước khác.

- Ông cho rằng lợi thế so sánh là sự khác biệt tương đối về năng suất lao động (hay chi phí lao động) giữa hai quốc gia về một sản phẩm.

- Các lợi thế tương đối được xem xét dưới ánh sáng của lý luận giá trị lao động, có nghĩa là chỉ thông qua trao đổi quốc tế mới xác định được mối tương quan giữa mức chi phí lao động cá biệt của từng quốc gia so với mức chi phí lao động trung bình quốc tế, trên cơ sở đó mà lựa chọn phương án tham gia vào quá trình phân công chuyên môn hóa quốc tế cho có lợi nhất.

- Mục đích cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại là tiết kiệm chi phí lao động xã hội - tức là tăng năng suất lao động xã hội. Bởi vậy mỗi quốc gia chỉ nên tập trung sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có hiệu quả cao, hoặc mức độ bất lợi thấp hơn và nhập khẩu những hàng hóa có bất lợi cao hơn thì khi so sánh mức độ hao phí lao động trung bình ở trình độ quốc tế theo từng sản phẩm sẽ có lợi - tiết kiệm được chi phí sản xuất, mặt khác lỗ trong xuất khẩu sẽ được bù lại nhờ lãi trong nhập khẩu.

Ví dụ về “lợi thế so sánh”:

- Giả định:

+ Chỉ có 1 yếu tố sản xuất duy nhất – lao động

+ Chi phí sản xuất là không đổi.

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí