Tiềm Năng Du Lịch Khu Vực Miền Tây Tỉnh Yên Bái.

+ Báo cáo thống kê của Cục thống kê tỉnh Yên Bái; Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ hàng năm của Sở Văn hóa- thể thao và du lịch Yên Bái.

+ Báo cáo tình hình KT – XH của UBND các huyện, thị miền Tây.

-Tư liệu điền dã: thông tin qua dân cư sinh sống trong các khu quy hoạch du lịch của địa phương như làng văn hóa Nghĩa An, khu sinh thái Suối Giàng, dân cư xã Dế Xu Phình, La Pán Tẩn…..tranh ảnh có liên quan đến hoạt động du lịch, các di tích, danh thắng, sinh hoạt văn hóa..

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic:

Phương pháp lịch sử được sử dụng để tái hiện lại bức tranh toàn cảnh kinh tế khu vực miền Tây một cách chân thực, khoa học, phản ánh đúng lịch sử và quy luật vận động của quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội của khu vực từ năm 1986 đến năm 2013 trong quá trình thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng.

Từ bức tranh chung của du lịch Yên Bái và khu vực miền Tây tỉnh Yên Bái. Phương pháp lôgic được sử dụng để khái quát tiềm năng khai thác của du lịch miền Tây.Trên cơ sở đường lối chung của Đảng, chính quyền các địa phương đã khai thác các tiềm năng đó như thế nào để thấy rằng du lịch và các sản phẩm của du lịch đã góp phần hình thành nên một bộ phận kinh tế của khu vực. Phương pháp logic đã giúp cho việc nhận định, đánh giá vạch ra bản chất, lý giải, khái quát và rút ra kết luận một cách toàn diện và sâu sắc.

Tìm hiểu về kinh tế du lịch tại một khu vực miền núi bao gồm 4 huyện thị xa ở miền Tây của tỉnh Yên Bái luận văn còn sử dụng kết hợp các phương pháp kinh tế học (phân tích, tổng hợp, so sánh), địa lí học, dân tộc học…cùng với phương pháp điền dã: điều tra phỏng vấn.

5. Đóng góp của luận văn

Trên cơ sở tìm hiểu về hoạt động kinh tế du lịch các địa phương đánh giá được đầy đủ hơn và khai thác tối đa tiềm năng sẵn có của mình; có những giải pháp huy động các nguồn lực để hướng tới sự phát triển bền vững trong xu thế hội nhập, công nhiệp hóa-hiện đại hóa.

Việc đánh giá được những đóng góp của hoạt động kinh tế và những ảnh hưởng tiêu cực của nó sẽ giúp các địa phương đưa ra những giải pháp và điều chỉnh hợp lý để tạo điều kiện cho hoạt động thương mại dịch vụ phát triển .

Nguồn tư liệu để dạy học lịch sử địa phương.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Nội dung chính của luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1:Tiềm năng du lịch khu vực miền Tây tỉnh Yên Bái.

Chương 2:Hoạt động du lịch ở khu vực miền Tây tỉnh Yên Bái (1986 -2013). Chương 3: Tác động của kinh tế du lịch đối với kinh tế - xã hội khu vực miền Tây tỉnh Yên Bái (1986 -2013).


Lược đồ hành chính khu vực miền tây tỉnh Yên Bái


Nguồn Cổng thông tin điện tử Yên Bái 12 Chương 1 TIỀM NĂNG DU LỊCH CỦA KHU 1

Nguồn:Cổng thông tin điện tử Yên Bái


12

Chương 1

TIỀM NĂNG DU LỊCH CỦA KHU VỰC MIỀN TÂY TỈNH YÊN BÁI


1.1. Địa lí tự nhiên

Vị trí địa lý

Khu vực miền Tây tỉnh Yên Bái nằm ở cửa ngõ của vùng Tây Bắc, khu vực bao gồm huyện Văn Chấn, thị xã Nghĩa Lộ, huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải. Phía Bắc giáp Than Uyên - Lào Cai; Phía Nam giáp tỉnh Sơn La và Phú Thọ; Phía Đông giáp huyện Văn Yên và Trấn Yên; Phía Tây giáp Sơn La, Lai Châu. Nằm ở vị trí này khu vực miền tây tỉnh Yên Bái là điểm giao lưu thuận tiện của giao thông vận tải đường bộ. Với quốc lộ 32, quốc lộ 37 thuận tiện cho lưu thông giữa các huyện, thị xã trong khu vực với các địa phương khác trong tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Phú Thọ, Lai Châu, Sơn La.

Giao thông thuận tiện là yếu tố rất quan trọng thu hút khách du lịch với khu vực miền Tây của tỉnh. Khiến cho du lịch ngày càng có điều kiện phát triển trở thành ngành kinh tế phát triển nhanh và bền vững.

Địa hình

Điều kiện địa hình ở mỗi nơi thường chế định cảnh đẹp và sự đa dạng của phong cảnh nơi đó. Địa hình khu vực chủ yếu là núi cao, nơi có địa hình núi cao nhất là Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Suối Giàngvới độ cao trên 1000m so với mực nước biển.Tiếp đến huyện Văn Chấn và thị xã Nghĩa Lộ với độ cao trung bình so với mực nước biển 400m. Khu vực miền Tây Yên Bái là vùng đồi núi với nhiều phong cảnh đẹp và là nơi có thể tiến hành các hoạt động du lịch.

Các dãy núi cao, rừng già và đồi thấp tạo nên nhiều phong cảnh hùng vĩ, hữu tình, những hang động có vẻ đẹp kì vĩ, huyền diệu như hang Thẩm Han, Thẩm Lé, Thẩm Thoong, hang Cua Đỏ,… Điều kiện địa hình này cho phép Yên Bái phát triển nhiều loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch cộng đồng, du lịch tham quan nghiên cứu.

Khí hậu

Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa Yên Bái có nhiệt độ trung bình 22 – 230 C; lượng mưa trung bình 1.500 - 2.200 mm/năm; độ ẩm trung bình 83

- 87%. Điều kiện khí hậu tạo nên điều kiện cho thảm thực vật phát triển đặc biệt là rừng, cây dược liệu và cây nông nghiệp. Tuy nhiên, khí hậu Yên Bái hay có các hiện tượng thời tiết đặc biệt như sương muối (xuất hiện chủ yếu ở độ cao trên 600m) mưa đá (xuất hiện rải rác ở một số vùng, càng lên cao càng có nhiều mưa đá, thường xuất hiện vào cuối mùa xuân đầu mùa hạ và thường đi kèm với hiện tượng dông và gió xoáy cục bộ. Ngoài ra ở các vùng cao trên 1000m thỉnh thoảng còn có băng tuyết vào cuối tháng mùa đông.

Yên Bái có hai vùng khí hậu lớn, có ranh giới được xác định bởi đường phân thủy của dãy núi cao theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, dọc theo hữu ngạn sông Hồng. Khu vực miền Tây nằm trong vùng khí hậu phía Tây: Phần lớn vùng này có độ cao trung bình trên 700m, địa hình chia cắt mạnh, mang tính chất khí hậu á nhiệt đới, ôn đới, ít chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Có gió Tây Nam nóng, khô nên khí hậu vùng này có nét đặc trưng là nắng nhiều, mưa ít so với vùng phía Đông. Xuất phát từ các yếu tố địa hình, khí hậu, đặc thù có thể chia khí hậu vùng phía Tây thành 3 tiểu vùng sau:

Tiểu vùng Mù Cang Chải: Vùng này có độ cao trung bình từ 900m, có nhiều nắng nhất tỉnh và chịu ảnh hưởng của giáo mùa Tây Nam. Do có độ cao địa hình lớn nên nhiệt độ thấp, nhiệt độ trung bình 18- 200 C, về mùa đông lạnh có khi xuống tới 00C. Tổng nhiệt độ năm 6.500 – 70000C, lượng mưa: 1.800 - 2000 mm/năm, độ ẩm 80%.

Tiểu vùng Tây Nam Văn Chấn: Vùng này có độ cao trung bình 800m, phía Bắc nhiều mưa, phía Nam là vùng ít mưa nhất tỉnh. Nhiệt độ trung bình là 18 – 200C, mùa đông nhiệt độ xuống tới 10C, lượng mưa 1.800mm/năm, độ ẩm 84%.

Tiểu vùng Văn Chấn - Tú Lệ độ cao trung bình vùng này 250 - 300m, có thung lũng Mường Lò với diện tích trên 2.200ha, nhiệt độ trung bình 22 -230 C, tổng nhiệt độ cả năm 80000 C.

Nền khí hậu của khu vực thích hợp với sức khỏe của con người và thuận lợi với hoạt động du lịch. Tuy nhiên, cần lưu ý tới hiện tượng thời tiết thất thường như sương muối, mưa đá, băng tuyết ở những vùng núi cao ở Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù Cang Chải.

Nguồn nước

Khu vực không có sông lớn mà có hàng chục khe suối lớn nhỏ, hệ thống ngòi suối đều bắt nguồn từ núi cao và chủ yếu từ dãy Hoàng Liên Sơn. Trên địa hình dốc cao như vậy đã tạo nên những thác nước kì vĩ, không chỉ cung cấp nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, làm thủy điện mà còn tạo ra cảnh quan thiên nhiên thơ mộng cho hoạt động tham quan, các thác nước nhiều tầng cũng tạo nên những cảnh quan thiên nhiên thơ mộng hiếm có như thác Nậm Mơ, Dề Thàng…

Trong khu vực có nhiều mỏ nước khoáng có giá trị phát triển du lịch, sản xuất nước khoáng tiêu biểu như:

Suối khoáng nóng Bản Bon (Xã Sơn A huyện Văn Chấn được đưa lên bề mặt đất qua nền đá gốc là đã vôi, kèm theo nhiều bọt khí, nhiệt độ nguồn nước đạt 540C, nước trong suốt, không màu, thoảng mùi H2S với độ PH = 6,7 cặn khô 2590mg/lít, kiểu nước Sunfat Canxi có độ khoáng hóa thấp M = 211,8 mg/lít, Br2 = 0,15 mg/lít, I2 = 0,0667 mg/lít.

Nước khoáng nóng xã Phù Nham (Huyện Văn Chấn) được phun lên từ mỏ than bùn, diện tích 15x15m. Kết quả phân tích cho thấy: Nhiệt độ nguồn nước đạt 380C lưu lượng 0,8m/s. Độ PH = 7,3 cặn khô 2.800 mg/lít, kiểu nước Sunfat Canxi có độ khoáng hóa thấp M = 2.115,8 hàm lượng Si không cao H2SiO3 = 51mg/lít, Br2 = 0,15 mg/lít, T2 = 0,0667 mg/lít.

Nước khoáng nóng Rừng Si (thị trấn nông trường Nghĩa Lộ), diện tích 2m2. Kết quả phân tích cho thấy: nhiệt độ nguồn nước đạt 410 C, độ PH = 8 căn khô 2.920 mg/lít, kiểu nước Sunfa - Canxi - Manhee, có độ khoáng hóa M= 2.750,8 mg/lít, hàm lượng H2SiO3 = 3 mg/lít.

Điểm nước khoáng nóng Bản Bon đã được đưa vào sử dụng rộng rãi. Các điểm còn lại đang tiếp tục nghiên cứu điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng để khai thác phục vụ phát triển tiềm năng du lịch, cũng như phực vụ cho sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân bản địa.

Nhìn chung, tài nguyên nước của khu vực tương đối dồi dào, chất lượng tốt, ít bị ô nhiễm. Nguồn tài nguyên này có giá trị lớn trong phát triển kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân nhất là hoạt động du lịch.

Tài nguyên sinh vật

Nằm trên độ cao trung bình từ 600m - 1000m cho nên khu vực có nhiều rừng và cảnh quan thiên nhiên. Hệ thống rừng già, rừng nguyên sinh phong phú, đa dạng có thể phục vụ du lịch sinh thái nghỉ dưỡng hoặc nghiên cứu khoa học: Khu du lịch sinh thái Suối Giàng (Văn Chấn) với khí hậu quanh năm mát mẻ; khu bảo tồn loài và sinh cảnh Mù Cang Chải với 788 loại thực vật trong đó có 33 loài thuộc loại quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam; khu danh thắng cấp quốc gia Ruộng bậc thang Mù Cang Chải.

Đặc biệt, Mù Cang Chải có khu bảo tồn các loài sinh vật cảnh với trung tâm là là xã Chế Tạo và vùng ngoại vi phía Bắc, phía Đông các xã Dế Su Phình, Pú Luông, Nậm Khắt. Trong những cánh rừng ngút ngàn, qua nhiều năm khảo sát người ta đã phát hiện ra 22 loài bò sát, lưỡng cư; 127 loài chim, riêng họ khiếu có tới 41 loài như:khướu vằn, khướu đuôi đỏ, khướu đất Pigmi, khướu lùn đuôi đỏ, khướu mào cổ hung, khướu mỏ dẹt vàng,..Quý hiếm hơn cả là loài niệc cổ hung Aceros Nipalensis, hiện nay chỉ còn thấy ở Mù Cang Chải và vườn quốc gia Pù Mát (Nghệ An). Nơi đây, chỉ còn 28 - 30 cá thể nhưng cũng là quần thể niệc cổ hung lớn nhất Việt Nam. Các loài thú hết sức phong

phú với 53 loài khác nhau như cầy vằn, nhím đuôi ngắn, cu li nhỏ, chó sói, khỉ mốc, lợn lòi, nai, khỉ mặt đỏ, sơn dương, gấu, ngựa, báo gấm, báo lửa, báo hoa mai, vọc xám… Đặc biệt là loài vượn đen tuyền với hơn 200 cá thể, hiện nay ở Việt Nam mới chỉ xác định ở hai địa điểm là phía Bắc huyện Văn Bàn (Lào Cai) và vùng giáp gianh giữa Mù Cang Chải (Yên Bái) và Mường La (Sơn La).

Trên nền địa hình cao, nhiều dốc núi, ở Mù Cang Chải có hơn 700 ruộng bậc thang…Ruộng bậc thang không chỉ cho năng suất ổn định, góp phần cải thiện đời sống dân cư, hạn chế chặt phá rừng làm nương rẫy mà còn tạo ra cảnh quan thiên nhiên kì vĩ. Đó là sản phẩm hội tụ các giá trị văn hóa tộc người H’Mông. Năm 2007 Ruộng bậc thang Mù Cang Chải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích danh thắng cấp quốc gia.

Có thể thấy khu vực miền Tây có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên tương đối đa dạng. Dựa vào nguồn tài nguyên này trong xu thể hội nhập của đất nước ngành du lịch Yên Bái đang nỗ lực phát triển đa dạng và phong phú các loại hình du lịch, tạo ra một ngành kinh tế du lịch nhằm khai thác tiềm năng của tỉnh, trong đó khu vực miền Tây được xác định là một hướng quan trọng.

1.2. Con người và tài nguyên nhân văn

Dân cư, dân tộc

Bảng 1.1 Diện tích, dân số, các đơn vị hành chính khu vực miền Tây



STT


Tên đơn vị


Số xã


Số

phường, thị trấn


Diện tích ( Km2)


Dân số TB 2009

( người)

Mật độ dân số 2009

( Ng/km2)

1

Thị xã Nghĩa Lộ

3

4

29,77

27.317

918

2

Huyện Mù Cang Chải

13

1

1.201,96

49.160

41

3

Huyện Trạm Tấu

11

1

746,19

26.474

35

4

Huyện Văn Chấn

28

3

1.210,90

144.201

119


Tổng

55

9

3.178,82

2.471,52

78

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

( Nguồn niên giám thống kê tỉnh Yên Bái 2009)

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 06/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí