Kiểm toán tài chính - 2

- Kiểm toán tiếp nhận và hoàn trả vốn.

Tiền

Mua hàng - trả tiền

Tiền lương và

nhân viên

Mối quan hệ giữa các chu trình kiểm toán được phản ánh qua sơ đồ 1.1:



Huy động - hoàn trả vốn

Bán hàng - Thu tiền

Hàng tồn kho

Sơ đồ 1.1. Phần hành kiểm toán cơ bản của kiểm toán tài chính

Tùy theo quy mô và tính chất của hoạt động tài chính (cũng là quy mô và tính chất của các loại nghiệp vụ tại khách thể kiểm toán), kiểm toán tài chính có thể chia tách các phần hành cơ bản hoặc gộp chung những phần hành cơ bản có liên quan thành phần hành cụ thể. Chẳng hạn, với một doanh nghiệp có quy mô lớn, có số lượng giá trị máy móc thiết bị, nhà xưởng nhiều và tương đối ổn định, vốn đầu tư chủ yếu từ nguồn vốn tự có thì kiểm toán tài sản cố định cần được tách khỏi phần hành kiểm toán riêng. Với những đơn vị đang trong quá trình đầu tư chủ yếu bằng vốn vay nợ… thì phần hành đầu tư và chi trả có thể là một chu trình cấu thành một phần hành kiểm toán; với những đơn vị dịch vụ có giá trị tài sản cố định quá nhỏ thì có thể không có phần hành riêng về tài sản cố định và đầu tư - chi trả. Những công việc chia ra hay gộp lại như vậy không ngoài mục đích chủ yếu là tạo điều kiện cho việc phân công và phối hợp có hiệu quả trong triển khai các phần công việc kiểm toán tại một đơn vị cụ thể.

1.1.2. Phương pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính

1.1.2.1. Đặc điểm chung của kiểm toán tài chính với phương pháp kiểm toán

Kiểm toán tài chính là một hoạt động đặc trưng và nằm trong hệ thống kiểm toán nói chung. Cũng như mọi loại hình kiểm toán khác, để thực hiện chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến, kiểm toán tài chính cũng sử dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ (kiểm toán cân đối, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logíc) và kiểm toán ngoài chứng từ (kiểm kê, thực nghiệm, điều tra). Tuy nhiên, do mỗi loại kiểm toán có chức năng cụ thể khác nhau, đối tượng cụ thể khác nhau và quan hệ chủ thể - khách thể kiểm toán khác nhau nên trong kiểm toán tài chính cách thức kết hợp các phương pháp cơ bản trên cũng có những điểm đặc thù.

Xét về mặt thực hiện chức năng chung của kiểm toán, kiểm toán tài chính hướng tới việc bày tỏ ý kiến trên cơ sở các bằng chứng kiểm toán. Để có được những bằng

chứng này, kiểm toán tài chính cần triển khai các phương pháp cơ bản trên theo từng tình huống cụ thể. Trong Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 8500 và Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 500, những cách thức cụ thể này được gọi là phương pháp thu thập bằng chứng kểm toán. Ở đây, các phương pháp kiểm toán cơ bản được triển khai theo hướng kết hợp hoặc chi tiết thành các cách kiểm toán cụ thể tùy tình huống cụ thể trong suốt quá trình kiểm toán. Chẳng hạn, theo hướng chi tiết, phương pháp điều tra (cơ bản) có thể thực hiện thông qua các cách thức như quan sát, trao đổi hoặc phỏng vấn, gửi thư xác nhận… Ngược lại, theo hướng tổng hợp, các phương pháp đối chiếu logíc, đối chiếu trực tiếp, cân đối,…có thể được thực hiện thông qua các thủ tục phân tích trong quá trình kiểm toán. Các phương pháp thu thập bằng chứng này sẽ hình thành các loại bằng chứng khác nhau.

Xét về đối tượng cụ thể của kiểm toán tài chính là các báo cáo kế toán và các bảng tổng hợp tài chính đặc biệt khác. Như đã phân tích trên, các bảng tổng hợp này vừa chứa đựng những mối quan hệ kinh tế tổng quát, vừa phản ánh cụ thể từng loại tài sản, từng loại nguồn vốn với những biểu hiện về kinh tế, pháp lí và được lập ra theo những trình tự xác định với những chuẩn mực cụ thể trong quan hệ với các nghiệp vụ phát sinh. Do vậy, kiểm toán tài chính thường là kiểm toán liên kết và phải hình thành những trắc nghiệm (tests) với việc sử dụng liên hoàn các phương pháp kiểm toán cơ bản để đưa ra ý kiến đúng đắn về các bảng tổng hợp này.

Chi phối kỹ thuật kiểm toán tài chính còn có mối liên hệ giữa nội kiểm và ngoại kiểm trên quan điểm hiệu quả. Xét về nguyên tắc, để bày tỏ ý kiến về bảng khai tài chính, trong mọi trường hợp, việc xác minh độ tin cậy của các con số và mức tuân thủ các nguyên tắc, các chuẩn mực phải được thực hiện trong mọi cuộc kiểm toán. Trong kiểm toán tài chính để đảm bảo tính hiệu quả trình tự phổ biến được thực hiện là tiến hành kiểm toán theo trình tự ngược với trình tự kế toán. Có thể khái quát mối quan hệ này trên bảng 1.1.

Bảng 1.1. Mối quan hệ chung giữa trình tự kế toán với trình tự kiểm toán



Các bước cơ bản


Chứng từ kế toán



Sổ chi tiết và sổ phụ



Sổ cái


Bảng tổng hợp kế

toán

Trình tự kế toán

I


II


III


IV

Trình tự kiểm toán

IV


III


II


I

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

Kiểm toán tài chính - 2

Cách khái quát trên chỉ mang tính phổ biến. Trên thực tế, trình tự kiểm toán rất đa dạng cho từng loại khách thể và từng loại đối tượng kiểm toán. Tuy nhiên, nguyên tắc chung của mọi cuộc kiểm toán tài chính là phải thẩm tra lại các thông tin, biểu hiện bằng tiền phản ánh trên bảng tổng hợp bằng việc kết hợp các phương pháp kiểm toán

chứng từ và ngoài chứng từ theo trình tự và cách thức kết hợp xác định tổng hợp các cách xác minh là các con số này được gọi là kiểm toán cơ bản hay thử nghiệm cơ bản.

Cho dù thử nghiệm cơ bản là thử nghiệm then chốt và cốt lòi trong mọi cuộc kiểm toán tài chính song không phải chúng được thực hiện với mọi khoản mục trong mọi quan hệ. Trên thực tế, các thông tin tài chính thường đã được xác minh nhiều lần. Mối quan hệ này tạo khả năng cho việc giảm tối đa các thử nghiệm cơ bản. Mặt khác, xét về nhu cầu, trong nhiều cuộc kiểm toán cũng không đòi hỏi phải thực hiện số lớn các thử nghiệm cơ bản nếu nghiệm thấy các thông tin trên bảng khai tài chính đáng tin cậy. Đồng thời, nhu cầu về tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả kiểm toán nói riêng và hiệu quả quản lí nói chung cũng đòi hỏi phải giảm tối đa những việc “lặp lại” không hiệu quả. Do đó, trong kiểm toán tài chính đã hình thành kiểm toán tuân thủ hay thử nghiệm tuân thủ. Thực chất của thử nghiệm này là dựa vào kết quả của hệ thống kiểm soát nội bộ khi hệ thống này tồn tại và hoạt động có hiệu lực. Tuy nhiên, ngay trong trường hợp này, thử nghiệm cơ bản (với số lượng ít) vẫn cần được thực hiện. Trong trường hợp ngược lại, hệ thống kiểm soát nội bộ của khách thể kiểm toán không tồn tại hoặc hoạt động không hiệu lực thì kiểm toán tài chính sẽ không thực hiện kiểm toán tuân thủ. Khi đó, các thử nghiệm cơ bản sẽ được tăng cường với quy mô đủ lớn để đảm bảo độ tin cậy và các kết luận kiểm toán. Bản chất cũng như số lượng của các thử nghiệm cơ bản được biểu hiện qua việc kết hợp giữa các phương pháp cơ bản của kiểm toán vào việc hình thành các trắc nghiệm.

1.1.2.2. Các trắc nghiệm trong kiểm toán tài chính

Trong kiểm toán tài chính, trắc nghiệm được hiểu là các cách thức xác định trong việc vận dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ vào việc xác minh các nghiệp vụ, các số dư tài khoản hoặc các khoản mục cấu thành bảng khai tài chính.

Tùy yêu cầu và đối tượng cụ thể cần xác minh, các phép kết hợp giữa các phương pháp kiểm toán cơ bản cũng khác nhau cả về số lượng và trình tự kết hợp và từ đó hình thành ba loại trắc nghiệm cơ bản: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích.

a. Trắc nghiệm công việc chính là cách thức rà soát các nghiệp vụ hay hoạt động cụ thể trong quan hệ với sự tồn tại và hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ trước hết là hệ thống kế toán. Thông thường, trong kiểm toán tài chính, trắc nghiệm công việc được sử dụng để xác định tính đúng đắn trong hệ thống kế toán từ việc tuân thủ các quy định về việc lập, xét duyệt và kiểm tra, sử dụng chứng từ kế toán qua ghi sổ và cộng sổ chi tiết hoặc nhật kí đến kết chuyển các số phát sinh vào sổ Cái. Do vậy, trắc nghiệm công việc hướng vào hai mặt cơ bản của tổ chức kế toán là mức đạt yêu cầu

(về thủ tục) và độ tin cậy (của các thông tin con số kế toán). Từ đó, trắc nghiệm công việc được phân định thành hai loại: trắc nghiệm mức đạt yêu cầu và trắc nghiệm độ tin cậy.

- Trắc nghiệm mức đạt yêu cầu của công việc là trình tự rà soát các thủ tục có liên quan đến đối tượng kiểm toán. Ví dụ: kiểm toán viên có thể soát xét lại thủ tục lập chứng từ hoặc rà soát lại thủ tục kiểm soát khác (như phân công, phân nhiệm hoặc ủy quyền v.v….). Đối tượng rà soát này có thể dựa trên dấu vết (như chữ kí dựa trên các chứng từ) hoặc không có dấu vết cụ thể (như phân công, phân nhiệm chẳng hạn). Trong quan hệ đó, trắc nghiệm mức đạt yêu cầu được thể hiện trong các tình huống khác nhau: có dấu vết và không có dấu vết. Trong trường hợp có dấu vết, có thể đối chiếu chữ kí trên các chứng từ và xem xét sự tương ứng của người kí duyệt với chức trách của từng người. Trong trường hợp không có dấu vết, có thể phỏng vấn cán bộ, nhân viên có liên quan hoặc quan sát công việc thực tế của họ. Ví dụ: kiểm toán vốn bằng tiền có thể đối chiếu chữ kí của người lập, người duyệt, người ghi sổ, người kiểm tra trên các biên lai, hóa đơn, các lệnh thu, lệnh chi, các phiếu thu, phiếu chi, các bảng sao kê của ngân hàng… theo chức trách của từng người (trắc nghiệm mức đạt yêu cầu có dấu vết) hoặc xem xét việc phân cách nhiệm vụ giữa người giữ tiền (thủ quỹ) với người ghi sổ qua phỏng vấn nhân viên thu tiền hoặc quan sát thực tế quá trình thu tiền

- nộp tiền và ghi sổ (trắc nghiệm mức đạt yêu cầu không có dấu vết).

Như vậy, trắc nghiệm mức đạt yêu cầu được sử dụng chủ yếu trong việc đánh giá sự hiện diện của hệ thống kiểm soát nội bộ và sự thỏa mãn mục đích “đảm bảo sự tuân thủ” của hệ thống kiểm soát nội bộ và của khách thể kiểm toán và gắn liền với kiểm soát nội bộ. Do đó, trong thực tế, trắc nghiệm mức đạt yêu cầu còn được gọi là trắc nghiệm kiểm soát hay đúng hơn trắc nghiệm chi tiết đối với các thủ tục kiểm soát. Tuy nhiên, cần chú ý trắc nghiệm này chưa hoàn toàn thoản mãn yêu cầu đánh giá hiệu lực của kiểm soát nội bộ, đặc biệt trong việc khẳng định mức độ tin cậy của các thông tin. Do đó, trắc nghiệm mức đạt yêu cầu cần gắn chặt với trắc nghiệm độ tin cậy trong trắc nghiệm công việc.

- Trắc nghiệm độ tin cậy của công việc là trình tự rà soát các thông tin về giá trị trong hành tự kế toán. Trong trường hợp này kiểm toán viên phải tính toán lại số tiền trên chứng từ kế toán với các sổ sách kế toán khác có liên quan. Qua đó, kiểm toán viên có thể khẳng định mức độ thỏa mãn mục đích “bảo đảm độ tin cậy của thông tin” của hệ thống kiểm soát nội bộ. Cũng vì thế, trắc nghiệm này được gọi là trắc nghiệm độ tin cậy trong trắc nghiệm công việc. Trong trường hợp này cần hiểu tin cậy không phải là ở thủ tục mà tin cậy ở con số.

Về nguyên tắc, trắc nghiệm mức đạt yêu cầu (trắc nghiệm chi tiết về thủ tục kiểm soát) chỉ được áp dụng khi rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức thấp. Khi đó, trắc nghiệm này được sử dụng trong kiểm toán tài chính để kiểm tra lại đánh giá trên. Nếu

kết quả kiểm tra này trùng hợp với đánh giá ban đầu thì kiểm toán viên có thể tin tưởng dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ để giảm bớt phần lớn (dù không được bỏ qua) trắc nghiệm về độ tin cậy nhằm nâng cao hiệu quả của kiểm toán tài chính. Ngược lại, nếu rủi ro kiểm soát được đánh giá là tồn tại ở mức cao thì có thể bỏ qua trắc nghiệm đạt yêu cầu và tiến hành ngay trắc nghiệm độ tin cậy (với số lượng lớn). Tuy nhiên trên thực tế, trong trắc nghiệm công việc có khi đồng thời thực hiện cả hai trắc nghiệm: trắc nghiệm đạt yêu cầu và trắc nghiệm độ tin cậy và gọi là trắc nghiệm song song.

b. Trắc nghiệm trực tiếp số dư là cách thức kết hợp các phương pháp cân đối, đối chiếu logic, phân tích đối chiếu trực tiếp với kiểm kê và kiểm tra thực tế để xác định độ tin cậy của các số dư cuối kì (hoặc tổng số phát sinh) ở Sổ cái ghi vào Bảng cân đối tài sản hoặc vào Báo cáo kết quả kinh doanh. Ví dụ: chi tiết hóa các khoản mua, tổng hợp, xác nhận các khoản phải thu, xem xét hiện vật các tài sản, đối chiếu các khoản phải trả ở bằng chứng thu nhập được từ một nguồn độc lập với khách thể kiểm toán nên bằng chứng thường có chất lượng cao. Tuy nhiên, trắc nghiệm trực tiếp này thường có chi phí kiểm toán lớn nên số lượng trắc nghiệm trực tiếp trên số dư cần thực hiện tùy thuộc vào kết quả trắc nghiệm mức đạt yêu cầu và trắc nghiệm độ tin cậy trong trắc nghiệm công việc cùng trắc nghiệm phân tích có liên quan đến các tài khoản.

Phần lớn trắc nghiệm trực tiếp số dư là trắc nghiệm độ tin cậy. Tuy nhiên cũng có số ít trắc nghiệm trực tiếp số dư là trắc nghiệm mức đạt yêu cầu. Ví dụ: khách thể kiểm toán đã kiểm kê vật tư bằng hai đoàn độc lập nhau để bảo đảm kết quả chính xác. Kiểm toán viên có thể thực hiện trắc nghiệm mức đạt yêu cầu bằng cách xem xét mức độc lập bằng cách xem xét mức độc lập giữa hai bộ phận kiểm kê. Trong trường hợp không tin cậy, kiểm toán viên buộc phải thực hiện trắc nghiệm độ tin cậy qua việc kiểm kê lại vật tư đó để xác minh.

c. Trắc nghiệm phân tích hay trình tự thẩm tra phân tích hay “quy trình phân tích” (chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 520) là cách thức xem xét các mối quan hệ kinh tế và xu hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế thông qua việc kết hợp các phương pháp: đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic, cân đối…giữa các trị số của cùng một chỉ tiêu hoặc của các chỉ tiêu có quan hệ với nhau hoặc của các bộ phận cấu thành chỉ tiêu. Cũng do mỗi trắc nghiệm phân tích đều liên quan đến trị số chỉ tiêu nên trắc nghiệm phân tích thuộc loại trắc nghiệm độ tin cậy. Tùy đối tượng và yêu cầu kiểm toán, các hướng phân tích có thể áp dụng khác nhau và hình thành ba loại hình phân tích chủ yếu: đánh giá tính hợp lí, phân tích xu hướng và phân tích tỷ suất.

- Đánh giá tính hợp lí là phân tích tổng quát trên cơ sở so sánh giữa giá trị sổ sách với giá trị ước tính của kiểm toán viên. Ví dụ: so sánh giữa tiền lương ghi sổ với

tính tiền lương của kiểm toán viên theo số lượng (thời gian) lao động hoặc số lượng sản phẩm và mức lương bình quân.

- Phân tích xu hướng là quá trình phân tích những thay đổi của một số dư tài khoản cụ thể hoặc một loại nghiệp vụ theo thứ tự của thời gian. Chẳng hạn, theo xu hướng biến động của một loại nghiệp vụ ở năm trước và sự hiểu biết về khách hàng ta có thể đưa ra dự đoán giá trị năm nay và so sánh với giá trị ghi sổ. Cách thức này có thể cho hiệu quả rò rệt với những số dư và loại nghiệp vụ được đánh giá có khả năng biến đổi lớn nhưng giá trị ghi sổ không biến đổi hoặc biến đổi rất ít.

- Phân tích tỷ suất là sự so sánh giữa các thương số cũng được tính ra trên cơ sở của hai chỉ tiêu có liên quan. Khái niệm “tỷ suất” ở đây, được dùng theo nghĩa rộng bao gồm cả tỷ lệ (%), hệ số (số lần) hoặc mức bình quân của một loại nghiệp vụ so với một số dư xác định. Cụ thể, trong kiểm toán tỷ suất thường được sử dụng trong những trường hợp sau:

+ Tỷ suất giữa loại nghiệp vụ với số dư một tài khoản. Ví dụ: tỷ suất giữa chi phí khấu hao với tổng tài sản được tính khấu hao (mức khấu hao bình quân).

+ Tỷ suất giữa loại nghiệp vụ này với loại nghiệp vụ khác có liên quan. Ví dụ: tỷ suất giữa lợi nhuận (hoặc chiết khấu bán hàng) với doanh thu.

+ Tỷ suất giữa số dư một tài khoản với số dư tài khoản khác có liên quan. Ví dụ: tỷ suất giữa dự phòng lỗi thời của hàng tồn kho với tổng giá trị hàng tồn kho.

+ Tỷ suất giữa chỉ tiêu tài chính với chỉ tiêu có liên quan khác về hoạt động.

Ví dụ: tỷ suất giữa tổng hàng hóa bán ra với diện tích bán hàng…

Các tỷ suất trên có thể được phân tích theo thời gian hoặc so sánh giữa các đơn vị hay bộ phận khác nhau có điều kiện tương tự.

1.1.3. Đặc điểm chung về trình tự kiểm toán tài chính

Theo nguyên lí chung, trình tự kiểm toán tài chính cũng trải qua ba giai đoạn cơ bản: chuẩn bị kiểm toán, thực hành kiểm toán và kết thúc kiểm toán. Tuy nhiên, do đặc điểm về đối tượng cụ thể, về quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm toán nên trình tự kiểm toán tài chính cũng có những đặc điểm riêng.

Trước hết, xét về thực hiện chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến, khác với kiểm toán hoạt động, kiểm toán tài chính hướng tới xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng tổng hợp và công khai tài chính trong khi kiểm toán hoạt động hướng vào hoạt động cụ thể. Do đó, thu thập bằng chứng kiểm toán là mục tiêu trực tiếp của kiểm toán tài chính. Trên góc độ đó cũng có thể nói, thực chất của quá trình kiểm toán tài chính là quá trình thu thập bằng chứng. Từ đó có thể thấy mỗi bước trong trình tự chung này đều hướng tới bằng chứng cho những kết luận kiểm toán.

Tiếp theo, quan hệ giữa chủ thể kiểm toán với khách thể kiểm toán trên mức độ nhất định là quan hệ ngoại kiểm nên mức độ hiểu biết của chủ thể kiểm toán về khách

thể kiểm toán luôn luôn là trọng tâm của công việc kiểm toán. Sự hiểu biết này có ảnh hưởng trực tiếp không chỉ đến quyết định lựa chọn khách thể kiểm toán để có thư hẹn (hoặc hợp đồng) kiểm toán mà còn ảnh hưởng đến cả hoạch định và triển khai chương trình kiểm toán và cả kết thúc công việc kiểm toán.

Ngoài ra, chủ thể của kiểm toán tài chính có thể là kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ. Với kiểm toán độc lập, mức độ hội nhập giữa các quốc gia khá cao. Trong khi đó, kiểm toán nhà nước dù phần lớn các cơ quan kiểm toán tối cao của mỗi nước đã gia nhập Hiệp hội các Cơ quan kiểm toán tối cao quốc tế nhưng mô hình tổ chức và quy trình cụ thể cũng còn cách biệt nhất định. Đăc biệt với kiểm toán nội bộ, chức năng xác minh bảng khai tài chính không mang tính phổ biến. Do vậy, trình tự cụ thể này tùy thuộc vào quy định của mỗi quốc gia, thậm chí mỗi tổ chức, cơ quan.

Thứ đến, đối tượng cụ thể kiểm toán tài chính là bảng khai tài chính được lập ra tại một thời điểm cụ thể. Trong khi đó, giá trị trên mỗi khoản mục cũng như trên toàn bộ bảng khai tài chính phản ánh kết quả hoạt động và việc giải quyết các mối quan hệ kinh tế trong suốt quá trình hoạt động và có liên quan đến kết quả hoạt động kì trước. Do đó, các kết quả này cần được xem xét trong quan hệ với cả quá trình hình thành, trong quan hệ của kì này với kì trước. Hơn thế nữa, tại thời điểm lập các bảng khai tài chính, hoạt động của các khách thể vẫn phải được tiến hành liên tục. Ở đây, việc phân cách giữa các kì kế toán chỉ là những thủ tục kế toán và phải tuân theo nguyên tắc chung của kế toán. Mỗi sai phạm nguyên tắc này có ảnh hưởng trực tiếp tới các trị số nói trên. Đặc biệt có thể có những sự việc bất thường xảy ra nhưng đến kì kế toán vẫn chưa giải quyết xong. Ví dụ: những vụ khiếu kiện, những xử lí về phạm vi hợp đồng hoặc những sự cố bất thường phát sinh trong thanh toán, trong bảo quản tài sản,… chưa xác định được kết quả cuối cùng. Tất cả những tình hình đó đòi hỏi kiểm toán tài chính phải xem xét kết quả hoạt động của kì kinh doanh đã phản ánh trên bảng với những nghiệp vụ phát sinh nhưng chưa được giải quyết hoặc chưa được phản ánh đầy đủ trong bảng.

Cuối cùng, bảng khai tài chính cũng như việc lập, kiểm tra các bảng khai này phải dựa trên chuẩn mực chung của kế toán. Từ đó, việc kiểm toán các bảng này không thể tách rời chuẩn mực kế toán cũng như chuẩn mực kiểm toán. Hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán có thể được xây dựng theo cấp độ khác nhau tùy theo kết cấu hệ thống pháp lí chung của mỗi nước song phổ biến có ba cấp độ cụ thể là luật pháp, chuẩn mực chung và các quy định cụ thể.

Ở mức luật pháp, có những quốc gia có luật pháp riêng về kiểm toán song có những quốc gia gắn kiểm toán với đạo luật cơ bản (Hiến pháp), hoặc các sắc luật trong phạm vị hoặc lĩnh vực khác (luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật ngân sách,…)

hoặc kết hợp cả hai cách tùy hoàn cảnh cụ thể của từng hệ tống pháp luật chung của từng quốc gia.

1.1.4. Khái quát đặc điểm của kiểm toán tài chính

Một cách chung nhất, mối quan hệ giữa kiểm toán tài chính với toàn bộ hệ thống kiểm toán là mỗi quan hệ giữa cái riêng và cái chung: cái riêng nằm trong cái chung song cái chung không bao trùm toàn bộ cái riêng. Cụ thể, kiểm toán tài chính cùng với các loại kiểm toán khác có chức năng là xác minh và bày tỏ ý kiến, có đối tượng hoạt động là cần được kiểm toán và có phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ. Từ đó, hoạt động kiểm toán phải được tổ chức khoa học theo trình tự xác định và được thực hiện bởi các nhà chuyên môn am hiểu và vận dụng có kinh nghiệm các phương pháp kiểm toán vào cùng đối tượng cụ thể trên cơ sở pháp lí xác định. Chính quan hệ này đòi hỏi hình thành kiểm toán liên kết.

Tuy nhiên, kiểm toán tài chính cũng có những đặc điểm riêng ngay trong cái chung và từ cái chung về chức năng, đối tượng, phương pháp đến tổ chức kiểm toán.

Về chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến có thể thấy: kiểm toán tài chính hướng tới công khai tài chính giữa các bên có lợi ích khác nhau và từ đó thu thập bằng chứng đầy đủ và tin cậy được quán triệt trong suốt quá trình thực hiện chức năng chung của kiểm toán.

Về đối tượng kiểm toán, kiểm toán tài chính có đối tượng trực tiếp là các bảng khai tài chính với những thông tin tổng hợp phản ánh nhiều mối quan hệ kinh tế, pháp lí cụ thể. Tất nhiên, các thông tin tài chính này có liên quan tới các hoạt động, đến tình hình thực hiện hệ thống pháp lí thuộc phạm vi nghiên cứu. Tuy nhiên, bản thân các hoạt động cũng như tình hình thực hiện các văn bản pháp lí không phải là đối tượng trực tiếp của kiểm toán tài chính (một loại hình của kiểm toán thông tin). Do vậy, việc xem xét các mặt, các yếu tố này trong thực trạng tài chính chỉ trên góc độ có liên quan đến các thông tin khai trên bảng khai tài chính và được chọn lọc qua điều tra, đối chiếu, phân tích thực tế tại khách thể kiểm toán.

Về quan hệ chủ thể với khách thể, kiểm toán tài chính thường được thực hiện bởi kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nhà nước và trong trường hợp đặc biệt có thể cả kiểm toán nội bộ của các đơn vị có quy mô lớn với nhiều bộ phận thành viên là đơn vị cơ sở. Trong mọi trường hợp, quan hệ chủ thể với khách thể đều mang đặc tính của quan hệ ngoại kiểm với nội kiểm. Do đó, việc xem xét và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ luôn là một trong những khâu cơ bản trong quá trình kiểm toán.

Về trình tự kiểm toán, bảng khai tài chính mang tính tổng hợp, tính công khai, tính thời điểm và do quan hệ nội kiểm - ngoại kiểm, nên trình tự cụ thể trong mỗi bước kiểm toán cơ bản đều được triển khai phù hợp với những đặc điểm của đối tượng, của quan hệ chủ thể - khách thể kết hợp tổng quát với chi tiết hóa các phương pháp kiểm toán.

Xem tất cả 220 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí