Thu Thập Thông Tin Về Các Nghĩa Vụ Pháp Lí Của Khách Hàng

Ngoài ra, KTV phải xem xét thỏa thuận phí kiểm toán với khách hàng, phần lớn các công ty kiểm toán đều muốn lập hóa đơn dựa theo tỷ lệ chuẩn ngày hoặc giờ làm việc của các cấp bậc KTV khác nhau trong sự kiểm toán và mức phí này sẽ thay đổi theo tiến trình của cuộc kiểm toán. Những khách hàng thường đòi hỏi phí kiểm toán được ấn định trước khi hợp đồng kiểm toán được thực hiện.

Điều cân nhắc cuối cùng nhưng quan trọng nhất của KTV khi đánh giá có chấp nhận khách hàng hay không chính là việc xác định khả năng có thể kiểm toán của khách hàng. Mặc dù khách hàng tiềm năng là người sử dụng báo cáo tài chính có thể tiến hành kiểm toán và đưa ra ý kiến đánh giá, ví dụ: một vụ hỏa hoạn (có thể) đã phá những chứng từ kế toán cần thiết đối với KTV hay hệ thống kế toán của khách hàng không thể cung cấp đày đủ bằng chứng chứng minh cho các nghiệp vụ phát sinh.

Mặc dù những chỉ dẫn về cách đánh giá khả năng có thể kiểm toán còn hạn chế nhưng tính nghề nghiệp đúng mức độ đòi hỏi kiểm toán viên phải đánh giá tính liêm chính của Ban quản trị và hệ thống kế toán của khách hàng. Hệ thống kế toán của khách hàng phải cung cấp đầy đủ bằng chứng chứng minh cho các nghiệp vụ đã phát sinh và đảm bảo rằng tất cả các nghiệp vụ cần được ghi chép thì thực tế đã ghi lại. Những nghi ngại về hệ thống kế toán có thể làm cho KTV kết luận rằng khó có thể có bằng chứng tin cậy và đầy đủ để làm căn cứ cho ý kiến của KTV về các BCTC.

- Nhận diện các lí do kiểm toán của công ty khách hàng.

Thực chất của việc nhận diện các lí do kiểm toán của công ty khách hàng là việc xác định người sử dụng BCTC và mục đích sử dụng cho báo cáo của họ.

Để biết được điều đó, KTV có thể phỏng vấn trực tiếp ban giám đốc khách hàng (đối với khách hàng mới) hoặc dựa vào kinh nghiệm của cuộc kiểm toán đã thực hiện trước đó (đối với khách hàng cũ). Và trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán sau này, KTV sẽ thu thập thêm thông tin để hiểu biết thêm về lí do kiểm toán của công ty khách hàng.

Việc xác định người sử dụng BCTC và mục đích sử dụng báo cáo của họ là hai yếu tố chính ảnh hưởng đến số lượng bằng chứng phải thu thập và mức độ chính xác của các ý kiến mà KTV đưa ra trong báo cáo kiểm toán. Cụ thể, nếu các BCTC cần được sử dụng rộng rãi thì mức độ trung thực, hợp lí của các thông tin trên BCTC được đòi hỏi cao và do đó số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập cũng như quy mô và độ phức tạp của cuộc kiểm toán sẽ càng tăng lên. Điều này lại càng đòi hỏi phải có một số lượng và cơ cấu KTV thích hợp để thực hiện cuộc kiểm toán.

Ở Việt Nam hiện nay, theo Thông tư số 22 (ngày 19/03/1994) của Bộ tài chính hướng dẫn việc thực hiện quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghệp 100% vốn nước ngoài) và các hợp đồng hợp tác kinh doanh với nước ngoài là phải kiểm toán trước khi công khai BCTC và gửi BCTC này tới các bộ ngành chức

năng, Tổng cục thuế và các cổ đông… Tuy nhiên trong thực tế, do sự phát triển nền kinh tế, khi các danh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa rộng rãi và thị trường chứng khoán phát triển thì số lượng khách hàng tìm đến với công ty kiểm toán ngày càng đa dạng hơn với nhiều mục đích khác nhau như: Kiểm toán trước khi cổ phần hóa, kiểm toán trước khi giải thể, phá sản hoặc sát nhập… làm cho số lượng người sử dụng BCTC tăng lên rất nhiều. Do vậy, công ty kiểm toán cần phải xác định lí do kiểm toán của khách hàng; căn cứ vào tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như dựa trên khả năng của công ty để ra quyết định hợp lí trong việc kí kết hợp đồng kiểm toán cũng như thiết kế phương pháp kiểm toán.

Như vậy, thông qua việc nhận diện lí do kiểm toán của khách hàng công ty kiểm toán cần ước lượng được quy mô phức tạp của công việc kiểm toán cần thực hiện từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn đội ngũ nhân viên thích hợp để thực hiện cuộc kiểm toán ở bước tiếp theo trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

- Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán.

Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán thích hợp cho hợp đồng kiểm toán không những đạt hiệu quả của cuộc kiểm toán mà còn tuân thủ các CMKT chung được thừa nhận. CMKT chung đầu tiên đã nêu rò “quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi một hoặc nhiều người đã được đào tạo đầy đủ thành thạo như một KTV”. Việc lựa chọn này được lựa chọn trên yêu cầu về số người, trình độ khả năng và yêu cầu chuyên môn kỹ thuật và thường do ban giám đốc công ty kiểm toán trực tiếp chỉ đạo (thông thường nhóm kiểm toán có một hoặc hai trợ lí kiểm toán, một KTV cao cấp và một chủ nhiệm kiểm toán). Với các hợp đồng lớn đội ngũ KTV thường ở các mức kinh nghiệm khác nhau và có sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực thống kê, vi tính… còn đối với những hợp đồng nhỏ thì chỉ cần một hoặc hai thành viên trong nhóm kiểm toán.

Kiểm toán tài chính - 4

Trong quá trình lựa chọn đội ngũ nhân viên, công ty kiểm toán cần quan tâm tới ba vấn đề:

Thứ nhất: nhóm kiểm toán có những người có khả năng giám sát thích đáng các nhân viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong nghề và điều này cũng được chuẩn mực đầu tiên cho việc kiểm toán tại khách hàng đòi hỏi. Do các trợ lí kiểm toán mới không tự tin khi thực hiện công tác kiểm toán do thiếu kinh nghiệm hoặc không hiểu rò các thủ tục kiểm toán đang thực hiện, tại sao họ phải thực hiện các thủ tục ấy và cách đánh giá các kết quả thu được và đôi khi các trợ lí này thực hiện một cách máy móc các thủ tục kiểm toán dựa theo chương trình kiểm toán trong hồ sơ kiểm toán năm trước.

Thứ hai: công ty kiểm toán cần tránh thay đổi KTV trong các cuộc kiểm toán cho một khách hàng trong nhiều năm. Việc tham gia kiểm toán cho một khách hàng trong

nhiều năm có thể giúp cho KTV tích lũy được nhiều kinh nghiệm cũng như có được hiểu biết sâu sắc về ngành nghề kinh doanh của khách hàng đang được kiểm toán.

Thứ ba: khi phân công KTV thực hiện cuộc kiểm toán cần chú ý lựa chọn những KTV có kiến thức và kinh nghiệm về ngành nghề kinh doanh của khách hàng.

Việc quan tâm đầy đủ các vấn đề trên khi lựa chọn đội ngũ kiểm toán có chất lượng và hiệu quả.

- Hợp đồng kiểm toán:

Khi đã quyết định chấp nhận kiểm toán cho khách hàng và xem xét các vấn đề trên, bước cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán mà công ty kiểm toán phải đạt được là một hợp đồng kiểm toán. Đây là sự thỏa thuận chính thức giữa công ty kiểm toán và khách hàng về việc thực hiện kiểm toán và các dịch vụ có liên quan khác.

Ở nhiều nước, thư hẹn kiểm toán thường do KTV soạn thảo và gửi cho khách hàng, nếu khách hàng chấp thuận các điều khoản trong hợp đồng thì họ sẽ kí vào thư hợp đồng và gửi trả lại một bản sao đã kí cho công ty kiểm toán. Còn ở Việt Nam, công ty kiểm toán và khách hàng thường gặp gỡ trực tiếp, thỏa thuận các hợp đồng và kí một hợp đồng kiểm toán. Theo CMKT số 210 thì hợp đồng kiểm toán phải được lập và kí chính thức trước khi tiến hành công việc kiểm toán nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng và của công ty kiểm toán. Trong một số trường hợp đặc biệt, “nếu khách hàng và công ty kiểm toán sử dụng văn bản cam kết thay cho hợp đồng thì văn bản cam kết phải đảm bảo các điều khoản về điều kiện cơ bản của hợp đồng kiểm toán”.

Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam: Bộ tài chính giữ vai trò quản lí nhà nước đối với hoạt động kiểm toán độc lập và ban hành các CMKT nên các CMKT ở nước ta mang tính quy phạm bắt buộc. Trong khi đó các CMKT quốc tế do Hiệp hội nghề nghiệp ban hành nên chỉ mang tính hướng dẫn chứ không mang tính bắt buộc.

Đồng thời CMKT Việt Nam số 210 đã cho phép sử dụng cam kết khác thay vì sử dụng hợp đồng kiểm toán do các hãng kiểm toán này và các khách hàng của họ đã quen với hình thức thư hẹn kiểm toán.

Thư hợp đồng (hoặc hợp đồng kiểm toán) là cơ sở hợp lí để KTV thực hiện các bước tiếp theo của cuộc kiểm toán và có thể ảnh hưởng đến trách nhiệm pháp lí của KTV đối với khách hàng, nó đảm bảo cho một cuộc kiểm toán thực thi.

Sau khi hợp đồng kiểm toán được kí kết, công ty kiểm toán trở thành chủ thể kiểm toán chính thức của công ty khách hàng.

1.3.2.2. Thu thập thông tin cơ sở

Sau khi kí kết hợp đồng kiểm toán, KTV bắt đầu lập kế hoạch kiểm toán tổng quát. Trong giai đoạn này, như đã được xác định trong CMKTVN số 300, Lập kế hoạch kiểm toán, KTV thu thập hiểu biết về ngành nghề, công việc kinh doanh của

khách hàng tìm hiểu về hệ thống kế toán, kiểm soát nội bộ và các bên liên quan để đánh giá rủi ro và lên kế hoạch kiểm toán. Trong giai đoạn này, KTV đánh giá khả năng có những sai sót trọng yếu, đưa ra đánh giá đầu về mức trọng yếu và thực hiện các thủ tục phân tích để xác định thời gian cần thiết để thực hiện kiểm toán và việc mở rộng các thủ tục kiểm toán khác.

- Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng.

CMKTVN số 300 đòi hỏi KTV phải tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng và trong đoạn 2 của CMKT Việt Nam 310 cũng như đoạn 2 của CMKT quốc tế 310 (ISA 310) đã hướng dẫn: “để thực hiện được kiểm toán BCTC, KTV phải có hiểu biết về tình hình kinh doanh đủ để nhận thức và xác định các dữ kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động của đơn vị được kiểm toán mà đánh giá của KTV có thể ảnh hưởng đến trọng yếu của BCTC, đến việc kiểm tra của KTV hoặc đến Báo cáo kiểm toán”. Điều này rất cần thiết khi KTV thực hiện kiểm toán với tính thận trọng nghề nghiệp đúng mức. Mỗi ngành có những hệ thống kế toán riêng và áp dụng những nguyên tắc kế toán có tính đặc thù. Thêm vào đó, tầm quan trọng của mỗi nguyên tắc kế toán cũng thay đổi theo ngành kinh doanh của khách hàng. Ví dụ: tiêu chuẩn xác định doanh thu trong ngành xây dựng là phức tạp, việc đánh giá hàng tồn kho là rất quan trọng trong lĩnh vực bán lẻ, còn trong lĩnh vực sản xuất, điều quan trọng lại là kế toán chi phí.

Những hiểu biết về ngành nghề kinh doanh bao gồm những hiểu biết chung về nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động của đơn vị và sự hiểu biết cụ thể hơn về tổ chức và hoạt động của đơn vị kiểm toán. KTV còn phải hiểu cả những khía cạnh đặc thù của một tổ chức cụ thể như: cơ cấu tổ chức, dây chuyền và các dịch vụ sản xuất, cơ cấu vốn, chức năng và vị trí của kiểm toán nội bộ….để hiểu rò các sự kiện, các nghiệp vụ và các hoạt động có thể tác động đến BCTC và để thực hiện quá trình so sánh khách hàng này với các đơn vị khác trong ngành đó.

KTV có thể có được hiểu biết này bằng nhiều cách nhưng phương pháp thường được ứng dụng nhiều nhất là trao đổi với các KTV, những người đã tiến hành kiểm toán cho khách hàng những năm trước hoặc đã kiểm toán cho khách hàng khác trong cùng ngành nghề kinh doanh hoặc trao đổi trực tiếp với nhân viên, Ban giám đốc của khách hàng.

Ngoài ra, KTV có thể có được những hiểu biết đó qua việc nghiên cứu những sách báo, tạp chí chuyên ngành và ở Việt Nam, KTV có thể lấy các thông tin từ Niên giám thống kê do Tổng cục Thống kê phát hành hàng năm.

- Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung:

Các hồ sơ kiểm toán năm trước thường chứa đựng rất nhiều thông tin về khách hàng, công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức và các đặc điểm hoạt động khác. Ngoài ra, đa phần các công ty kiểm toán đều duy trì hồ sơ kiểm toán thường xuyên đối với mỗi

khách hàng. Hồ sơ này có các bản sao của các tài liệu như: sơ đồ tổ chức, điều lệ công ty, các bảng kê, chính sách tín dụng, chính sách kế toán….Qua đó, KTV sẽ tìm thấy những thông tin hữu ích về công việc kinh doanh của khách hàng. Việc cập nhật và xem xét các sổ sách của nhà quản lí có phù hợp với luật pháp của Nhà nước, với các chính sách hiện hành của Công ty hay không mà còn giúp KTV hiểu được bản chất của các số liệu cũng như sự biến động của chúng trên các BCTC được kiểm toán.

- Thăm quan nhà xưởng

Một vòng thăm quan nhà xưởng, quan sát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng sẽ cung cấp cho KTV một cái nhìn tổng thể về công việc kinh doanh của khách hàng (đặc biệt là công tác bảo vệ tài sản). Điều này tạo điều kiện cho viẹc thuyết minh số liệu kế toán, phát hiện những vấn đề cần quan tâm như sản xuất trì trệ, sản phẩm ứ đọng, máy móc lạc hậu hay không được phát huy hết công suất …., do đó KTV dự đoán được những tài khoản trọng yếu trên BCTC. Ngoài ra, KTV cũng có được những nhận định ban đầu về phong cách quản lí của ban giám đốc, tính hệ thống trong việc sắp đặt công việc…

- Nhận diện các bên liên quan

Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV nên xác định tất cả các bên có liên quan với khách hàng. Theo cách hiểu thông thường, tất cả các bên có liên quan là các tổ chức hoặc cá nhân có tác động ảnh hưởng tới khách hàng. Theo CMKTVN số 550 về Các bên liên quan, các bên liên quan được hiểu là: các bộ phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính thức của công ty khách hàng hay bất kì công ty chi nhánh, một cá nhân hay tổ chức nào mà công ty khách hàng có quan hệ và cá nhân tổ chức đó có khả năng điều hành, kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới các chính sách kinh doanh hoặc chính sách quản trị của công ty khách hàng.

KTV có thể quan tâm tới sự hiện hữu của các bên liên quan trên hai khía cạnh:

+ Tất cả các nghiệp vụ giao dịch quan trọng đã được công bố đầy đủ.

+ Tất cả các nghiệp vụ giao dịch giữa khách hàng và các bên liên quan được ghi chép lại để phản ánh bản chất kinh tế hơn là để phản ánh hình thức kinh tế của nghiệp vụ.

Theo các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận, bản chất mối quan hệ giữa các bên liên quan phải được tiết lộ trên các sổ sách, báo cáo và qua mô tả các nghiệp vụ kinh tế. Do vậy, các bên liên quan và các nghiệp vụ giữa các bên liên quan có ảnh hưởng lớn đến sự nhận định của người sử dụng BCTC. Do vậy, KTV phải xác định các bên liên quan và nhận định sơ bộ về mối quan hệ này ngay trong giai đoạn lập kế hoạch thông qua phỏng vấn ban giám đốc, xem sổ theo dòi cổ đông, sổ theo dòi khách hàng…từ đó bước đầu dự đoán các vấn đề có thể phát sinh giữa các bên liên quan để có thể hoạch định một kế hoạch kiểm toán phù hợp.

- Dự kiến nhu cầu chuyên gia bên ngoài

Thuật ngữ “chuyên gia” chỉ một người hoặc một văn phòng có năng lực, hiểu biết và kinh nghiệm cụ thể trong một lĩnh vực riêng ngoài lĩnh vực kế toán và kiểm toán. KTV có thể thấy rằng không ai trong nhóm kiểm toán có chuyên môn hoặc khả năng về lĩnh vực nào đó để thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết nhất định, ví dụ như khi đánh giá về các tác phẩm nghệ thuật, vàng bạc, đá quý, hoặc khi cần tư vấn pháp lí về các hợp đồng…khi đó, KTV có thể quyết định sử dụng chuyên gia bên ngoài để có được các ý kiến tư vấn từ họ.

Như vậy, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV cần xác định các vấn đề cần có sự tư vấn của chuyên gia, nhờ đó KTV có thể chắc chắn rằng khi cần thiết, anh ta sẽ nhận được sự tư vấn từ chuyên gia có năng lực và độc lập với công ty khách hàng.

1.3.2.3. Thu thập thông tin về các nghĩa vụ pháp lí của khách hàng

Nếu các thông tin cơ sở được thu thập ở trên giúp KTV hiểu được về quá trình hình thành, mục tiêu hoạt động và các lĩnh vực kinh doanh của khách hàng thì việc thu thập các thông tin về các nghĩa vụ pháp lí của khách hàng giúp cho KTV nắm bắt được các quy trình mang tính pháp lí có ảnh hưởng đến các mặt hoạt động kinh doanh này, những thông tin này được thu thập trong quá trình tiếp xúc với ban giám đốc công ty khách bao gồm bốn loại sau:

- Giấy phép thành lập và điều lệ công ty

Việc nghiên cứu những tài liệu này giúp KTV hiểu được về quá trình hình thành, mục tiêu hoạt động và các lĩnh vực kinh doanh hợp pháp của đơn vị cũng như nắm bắt được những vấn đề mang tính chất nội bộ của đơn vị như cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các phòng ban, thủ tục phát hành cổ phiếu, trái phiếu…

- Các BCTC, báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra của năm hiện hành trong vài năm trước.

- Biên bản các cuộc họp cổ đông, Hội đồng quản trị và ban giám đốc:

Qua việc nghiên cứu các biên bản này, KTV sẽ xác định được những dữ kiện có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành và trình bày trung thực các thông tin trên báo cáo tài chính.

Trước khi cuộc kiểm toán hoàn thành, KTV cần phải kiểm tra, đối chiếu các kết quả thu được trong quá trình kiểm toán với các quyết định đưa ra trong các cuộc họp để đảm bảo là ban giám đốc đã tuân thủ các biện pháp đã được Hội đồng quản trị và các cổ đông đề ra và yêu cầu ban giám đốc cung cấp thư giải trình trong đó cam kết là đã gửi đầy đủ các biên bản của các cuộc họp trên cho KTV.

- Các hợp đồng và cam kết quan trọng

Các hợp đồng và cam kết quan trọng như: Hợp đồng mua bán hàng… là mối quan tâm hàng đầu ở các bộ phận cá biệt của cuộc kiểm toán và đặc biệt là trong suốt các giai đoạn khác nhau của cuộc khảo sát chi tiết. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm

toán, việc xem xét sơ bộ các hợp đồng đó sẽ giúp KTV tiếp cận với các hoạt động tài chính của khách hàng, hình dung những khía cạnh pháp lí có ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị khách hàng.

1.3.2.4. Thực hiện thủ tục phân tích

Thủ tục phân tích, theo định nghĩa của CMKTVN số 520: “là quá trình đánh giá các thông tin tài chính được thực hiện thông qua việc nghiên cứu các mối quan hệ đáng tin cậy giữa các dữ liệu tài chính và dữ liệu phi tài chính. Nó bao hàm cả việc so sánh số liệu trên sổ với các số liệu ước toán của KTV”.

Sau khi đã thu thập được các thông tin trên cơ sở và thông tin về nghĩa vụ pháp lí của khách hàng, KTV tiến hành thực hiện các thủ tục phân tích đối với các thông tin đã thu thập để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các thủ tục kiểm toán sẽ được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán. Các thủ tục phân tích sử dụng cho việc lập kế hoạch kiểm toán nhằm vào mục tiêu sau:

- Thu thập hiểu biết về nội dung các BCTC và những biến đổi quan trọng về kế toán và hoạt động kinh doanh của khách hàng vừa mới diễn ra kể từ lần kiểm toán trước.

- Tăng cường sự hiểu biết của KTV về hoạt động kinh doanh của khách hàng và giúp KTV xác định các vấn đề nghi vấn về khả năng hoạt động liên tục của công ty khách hàng.

Như vậy, qua việc thực hiện các thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV có thể xác định nội dung cơ bản của cuộc kiểm toán BCTC. Mức độ, phạm vi và thời gian áp dụng các thủ tục phân tích thay đổi tùy thuộc vào quy mô và tính phức tạp trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.

1.3.2.5. Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro

Nếu ở các bước trên, KTV mới chỉ thu thập được các thông tin mang tính khách quan về khách hàng thì ở bước này, KTV sẽ căn cứ vào các thông tin đã thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một chiến lược, kế hoạch kiểm toán phù hợp.

- Đánh giá tính trọng yếu

Trong giai đoạn lập kế hoạch, KTV phải đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC để từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi các khảo sát (thử nghiệm) kiểm toán. Ở đây, KTV cần đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC và phân bổ mức đánh giá đó cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính.

- Ước tính ban đầu về tính trọng yếu

Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu và lượng tối đa hóa mà KTV tin rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của

người sử dụng hay nói cách khác đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ BCTC.

Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho KTV lập kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Cụ thể là nếu các KTV ước lượng mức trọng yếu càng thấp, nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên BCTC càng cao, thì số lượng bằng chứng phải thu thập càng nhiều và ngược lại.

Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là một việc làm mang tính chất xét đoán nghề nghiệp của KTV. Do đó, ước lượng ban đầu về tính trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu KTV thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá cao hoặc quá thấp hoặc một trong các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu bị thay đổi.

1.3.3. Thiết kế chương trình kiểm toán

Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán cần thực hiện, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa các KTV cũng như dự kiến về những tư liệu, thông tin liên quan cần sử dụng và thu thập. Trọng tâm của chương trình kiểm toán là các thủ tục kiểm toán cần thiết thực hiện đối với từng khoản mục hay bộ phận được kiểm toán.

Chương trình kiểm toán của hầu hết các cuộc kiểm toán được thiết kế thành ba phần: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm phân tích và trắc nghiệm trực tiếp các số dư. Mỗi phần được chia nhỏ thành các chu kì nghiệp vụ và các khoản mục trên BCTC.

Việc thiết kế các loại hình trắc nghiệm kiểm toán trên đều gồm bốn nội dung: xác định thủ tục kiểm toán, quy mô mẫu chọn, khoản mục được chọn và thời gian thực hiện.

- Các thủ tục kiểm toán cần sử dụng đây là những hướng dẫn chi tiết về quá trình thu thập một loại bằng chứng kiểm toán cá biệt ở một thời điểm nào đó trong khi tiến hành kiểm toán.

- Quy mô mẫu chọn: Do đối tượng kiểm toán bao gồm nhiều loại nghiệp vụ khác nhau với khối lượng nghiệp vụ phát sinh. Nhưng những người sử dụng thông tin tài chính thì lại đòi hỏi KTV phải có kết luận chính xác về các thông tin đó. Vì vậy, KTV phải tiến hành chọn mẫu theo phương pháp khoa học để chọn được mẫu có tính đại diện, phản ánh được đặc trưng cơ bản của tổng thể.

- Khoản mục được chọn: Khi quyết định được số lượng mẫu thì lại phải chọn được mẫu có tính đại diện, do vậy phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thường hay sử dụng (sử dụng Bảng ngẫu nhiên). Ngoài ra, nếu các nghiệp vụ nào bất thường hoặc có số tiền nào quá lớn thì cũng được xem xét đến mặc dù không có trong mẫu.

- Thời gian thực hiện: Xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc các thủ tục kiểm toán đã đề ra.

Xem tất cả 220 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí