1.2. Mục tiêu của kiểm toán tài chính
1.2.1. Hệ thống mục tiêu của kiểm toán tài chính
Cũng như mọi hoạt động có ý thức khác của con người, đặc biệt với tính chất của một hoạt động chuyên sâu cao về nghề nghiệp, kiểm toán cũng có mục đích cùng những tiêu điểm cần hướng tới để đạt mục đích của mình. Tập hợp các tiêu điểm hướng tới mục đích đó và được gọi là hệ thống mục tiêu kiểm toán.
Với mọi hoạt động, mục đích cùng những tiêu điểm đều xuất phát từ bản chất, chức năng của mỗi hoạt động và đặc điểm từ đối tượng của hoạt động đó.
Là một loại hình kiểm toán, kiểm toán tài chính cũng thực hiện chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán. Đối tượng kiểm toán nói chung và đối tượng kiểm toán tài chính nói riêng luôn chứa đựng nhiều mối quan hệ kinh tế và về pháp lí phong phú, đa dạng. Hơn nữa, trong kiểm toán tài chính, ý kiến hay kết luận kiểm toán không phải phục vụ cho bản thân người lập hay người xác minh mà phục vụ cho người quan tâm đến tính trung thực và hợp lí của báo cáo tài chính. Do đó, kết luận này phải dựa trên bằng chứng đầy đủ và có hiệu lực với chi phí kiểm toán ít nhất. Do vậy, việc xác định hệ thống mục tiêu kiểm toán khoa học trên cơ sở các mối quan hệ vốn có của đối tượng và của khách thể kiểm toán sẽ giúp kiểm toán viên thực hiện đúng hướng và có hiệu quả hoạt động kiểm toán. Đặc điểm cơ bản trong triển khai chức năng chung của kiểm toán tài chính và thu thập bằng chứng (xác minh) để đưa ra kết luận (bày tỏ ý kiến) trình bày trên một báo cáo kiểm toán thích hợp. Đây chính là mục tiêu tổng quát của kiểm toán tài chính. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200, khoản 11 xác định:
“Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lí trên các khía cạnh trọng yếu hay không. Mục tiêu kiểm toán tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rò những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị”.
Ở đây, các khái niệm trung thực, hợp lí, hợp pháp được hiểu như sau:
Trung thực là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng sự thật nội dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Hợp lí là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung thực, cần thiết và phù hợp về không gian, thời gian và sự kiện được nhiều người thừa nhận.
Hợp pháp là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng pháp luật, đúng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận).
Có thể bạn quan tâm!
- Kiểm toán tài chính - 1
- Kiểm toán tài chính - 2
- Thu Thập Thông Tin Về Các Nghĩa Vụ Pháp Lí Của Khách Hàng
- Khái Quát Quá Trình Thực Hiện Kế Hoạch Kiểm Toán
- Ý Kiến Của Kiểm Toán Viên Trình Bày Trên Báo Cáo Kiểm Toán
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
Để đạt được mục tiêu tổng quát nói trên cần cụ thể hóa hơn nữa các yếu tố cấu thành và tiến trình thực hiện các yêu cầu trung thực, hợp lí, hợp pháp trong xác minh
và bày tỏ ý kiến về toàn bộ báo cáo tài chính cũng như trong kiểm toán phần hành cụ thể. Giải quyết vấn đề này trước hết cần xuất phát từ các quan hệ trách nhiệm giữa chủ thể với khách thể kiểm toán trong việc thực hiện các yêu cầu trung thực, hợp lí và hợp pháp nói trên của quản lí về báo cáo tài chính.
1.2.2. Mục tiêu kiểm toán chung và mục tiêu kiểm toán đặc thù
Nếu cam kết của nhà quản lí phải hướng tới các đòi hỏi ở các bước công nghệ kế toán thì xác minh của kiểm toán viên trước hết phải tập trung vào việc xem xét độ tin cậy của các cam kết của nhà quản lí. Hơn nữa trách nhiệm chung của các nhà quản lí và kiểm toán viên là đảm bảo độ tin cậy của thông tin trong các bảng khai tài chính. Tuy nhiên, với kiểm toán viên, việc xác minh không chỉ dừng ở các mục tiêu chung mà phải cụ thể vào từng phần hành kiểm toán (gọi là mục tiêu đặc thù). Do đó, trong hệ thống mục tiêu kiểm toán bao gồm cả những mục tiêu đặc thù.
Các mục tiêu kiểm toán chung lại được chia thành hai loại cụ thể là sự trung thực và tính hợp lí chung (gọi tắt là mục tiêu tổng quát) và các mục tiêu chung khác (gọi tắt là mục tiêu chung). Các mục tiêu chung này được đặt ra tương ứng với cam kết của nhà quản lí là hiệu lực, tính trọn vẹn quyền và nghĩa vụ, phân loại trình bày chính xác cơ học.
Mục tiêu hiệu lực là hướng xác minh tính có thật của số tiền trên các khoản mục. Có thể xem mục tiêu này là hướng tới tính đúng về nội dung kinh tế qua khoản mục trong quan hệ với các nghiệp vụ, các bộ phận cấu thành khoản mục đó. Từ đó, số tiền ghi vào bảng khai tài chính phải là con số thực tế. Nếu ghi một nghiệp vụ bán hàng vào Nhật kí và từ đó vào Sổ cái để chuyển vào Báo cáo kết quả kinh doanh là vi phạm mục tiêu hiệu lực…Như vậy, mục tiêu hiệu lực là hướng xác minh bổ sung vào cam kết về sự tồn tại hay xảy ra của nhà quản lí.
Mục tiêu trọn vẹn là hướng xác minh sự đầy đủ về thành phần (nội dung) cấu thành số tiền ghi trên các khoản mục. Cụ thể mục tiêu này liên quan đến tính đầy đủ của các nghiệp vụ, tài sản và vốn cần được tính vào khoản mục. Chẳng hạn, không ghi một khoản mục tương ứng là vi phạm mục tiêu trọn vẹn.
Mục tiêu này cũng là phần bổ sung cho xác nhận về tính trọn vẹn của nhà quản lí.
Các mục tiêu hiệu lực và trọn vẹn hướng trọng tâm chú ý vào những quan hệ kiểm toán ngược nhau: Mục tiêu hiệu lực có quan hệ đến khả năng khai khống số tiền từ những nghiệp vụ, tài sản hoặc vốn không có thực trong khi mục tiêu trọn vẹn lại quan hệ với những bộ phận thực tế phát sinh nhưng không ghi sổ.
Mục tiêu quyền và nghĩa vụ bổ sung cho cam kết về quyền và nghĩa vụ với ý nghĩa xác minh lại quyền sở hữu (hoặc sử dụng lâu dài và được luật pháp thừa nhận) của tài sản và nghĩa vụ pháp lí (hoặc hợp đồng dài hạn) của các khoản nợ và vốn. Thực
chất của mục tiêu này là hướng tới mối liên hệ giữa các bộ phận ở trong và ngoài bảng cân đối tài sản.
Mục tiêu định giá là hướng xác minh vào cách thức và kết quả biểu hiện tài sản, vốn và các hoạt động (chi phí, chiết khấu, thu nhập…) thành tiền. Như vậy, mục tiêu này nghiêng về thẩm tra giá trị thực tế cả cách thức đánh giá theo nguyên tắc kế toán, kể cả thực hiện các phép tính theo phương pháp toán học. Tuy nhiên, mục tiêu này cũng không loại trừ xem xét tới liên hệ về cơ cấu có ảnh hưởng tới số tiền ghi trong các bảng khai tài chính như việc thẩm tra các khoản chiết khấu, lãi suất, cổ tức, v.v… Đây là những khoản cấu thành chi phí, thu nhập, tài sản và vốn. Mục tiêu này được sử dụng để làm rò ràng cam kết của nhà quản lí về định giá và phân bổ.
Mục tiêu phân loại là hướng xem xét lại việc xác định các bộ phận, nghiệp vụ được đưa vào tài khoản, công việc sắp xếp các tài khoản trong các bảng khai tài chính theo bản chất kinh tế của chúng được thể chế bằng các văn bản pháp lí cụ thể đã có hiệu lực. Trong các văn bản này, hệ thống tài khoản là cơ sở ban đầu để thẩm tra phân loại tài sản, nghiệp vụ và vốn của khách hàng. Đồng thời giới hạn về thời gian đặc biệt là những nghiệp vụ xảy ra cuối kì, kế toán cũng là một trọng tâm của rà soát việc ghi vào các tài khoản. Với nội dung trên, mục tiêu này là sự bổ sung cần thiết vào cam kết về phân loại, phân bổ.
Mục tiêu chính xác cơ học là hướng xác minh sự đúng đắn tuyệt đối về các con số cộng số và chuyển số: Các chi tiết trong số dư (cộng số phát sinh) của tài khoản cần nhất trí với các con số trên các sổ phụ tương ứng; số cộng gộp của tài khoản trùng hợp với số tổng cộng trên các sổ phụ có liên quan; các con số chuyển sổ, sang trang phải thống nhất.
Rò ràng, số dư (tổng số phát sinh) của tài khoản được phản ánh vào các khoản mục xác định của các bảng khai tài chính. Vì vậy, các con số phải trùng hợp với Sổ cái, các sổ chi tiết hay các sổ phụ, các bảng kê, nhật kí và các bảng phụ lục do khách hàng lập. Mục tiêu chính xác cơ học sẽ bổ sung cho cam kết này của nhà quản lí với hàm ý khẳng định lại mức chính xác số tổng cộng của chúng với các bảng khai tài chính…Chẳng hạn, các khoản phải thu cá biệt trên bảng kê các khoản phải thu phải trùng hợp với sổ phụ các khoản phải thu và số tổng cộng phải thống nhất với tài khoản tương ứng trên Sổ cái.
Mục tiêu trình bày hướng xác minh vào cách ghi và thuyết trình các số dư (hoặc tổng số phát sinh) của tài khoản vào các bảng khai tài chính. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi kiểm toán viên khẳng định chắc chắn là tất cả các tài khoản thuộc Bảng Cân đối tài sản và Báo cáo Kết quả kinh doanh cùng các thông tin có liên quan đã được trình bày đúng và thuyết minh rò ràng trong các bảng và các giải trình kèm theo. Với ý
nghĩa đó, mục tiêu này là phần bổ sung của kiểm toán viên vào xác nhận của nhà quản lí về sự trình bày và thuyết minh.
1.3. Xây dựng kế hoạch kiểm toán
1.3.1. Lập kế hoạch kiểm toán trong qui trình kiểm toán tài chính
1.3.1.1. Qui trình kiểm toán và vai trò của lập kế hoạch kiểm toán trong qui trình kiểm toán tài chính.
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của từng cuộc kiểm toán cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm căn cứ cho kết luận của KTV về tính trung thực và hợp lí của số liệu trên báo cáo tài chính, cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy trình gồm ba giai đoạn như sau: lập kế hoạch và thiết kế các phương pháp kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán, hoàn thành cuộc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán.
Giai đoạn I
Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Giai đoạn II
Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn III
Hoàn thành kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán
Sơ đồ 1.2. Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính
Trong đó, lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên (KTV) cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lí cũng như những điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán. Việc lập kế hoạch kiểm toán đã được quy định rò trong các Chuẩn mực kiểm toán (CMKT) hiện hành, CMKT thứ tư trong 10 CMKT được thừa nhận rộng rãi (GAAS) đòi hỏi “công tác kiểm toán phải được lập kế hoạch đầy đủ và các trợ lí, nếu có, phải được giám sát đúng đắn”. Đoạn hai trong CMKT quốc tế (ISA) số 300 cũng nêu rò chuyên gia kiểm toán cần lập kế hoạch cho công tác kiểm toán để có thể đảm bảo được rằng cuộc kiểm toán đã được tiến hành một cách có hiệu quả.
Như vậy, việc lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của cuộc kiểm toán mà nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán, cho cuộc kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm toán đã được quy
định thành chuẩn mực và đòi hỏi các KTV phải tuân theo đầy đủ nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và chất lượng.
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện qua một số điểm sau:
- Kế hoạch kiểm toán giúp KTV thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra các ý kiến xác đáng về các báo cáo tài chính từ đó giúp các KTV hạn chế những sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lí, nâng cao hiệu quả công việc và giữ vững được uy tín nghề nghiệp đối với khách hàng.
- Kế hoạch kiểm toán giúp các KTV phối hợp hiệu quả với nhau cũng như phối hợp hiệu quả các bộ phận có liên quan như kiểm toán nội bộ, các chuyên gia bên ngoài… Đồng thời, qua sự phối hợp hiệu quả đó, KTV có thể tiến hành cuộc kiểm toán theo đúng chương trình đã lập với các chi phí ở mức hợp lí, tăng cường sức mạnh cạnh tranh cho công ty kiểm toán và giữ uy tín với khách hàng trong mối quan hệ làm ăn lâu dài.
- Kế hoạch kiểm toán thích hợp là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xảy ra những bất đồng đối với khách hàng. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, KTV thống nhất với các khách hàng về nội dung công việc sẽ thực hiện, thời gian tiến hành kiểm toán cũng như là trách nhiệm của mỗi bên….Điều này tránh xảy ra những hiểu nhầm đáng tiếc giữa hai bên.
- Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, KTV có thể kiểm soát và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các cuộc kiểm toán, từ đó càng thắt chặt hơn mối quan hệ giữa công ty kiểm toán với khách hàng.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung cũng như hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng là những hoạt động hết sức mới mẻ. Trong khi đó, hành lang pháp lí cho hoạt động kiểm toán chưa đầy đủ, nội dung, quy trình cũng như phương pháp được vận dụng trong các cuộc kiểm toán của Việt Nam mới ở giai đoạn bắt đầu, nguồn tài liệu thiếu cả về số lượng, tính đồng bộ và hạn chế về mặt chất lượng. Do vậy, kế hoạch kiểm toán cần được coi trọng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán. Thực tiễn hoạt động kiểm toán ở nước ta trong những năm vừa qua cho thấy kế hoạch kiểm toán được lập đầy đủ và chu đáo là một trong những nhân tố hàng đầu đưa đến sự thành công của cuộc kiểm toán cũng như dẫn đến sự thành công của các doanh nghiệp.
1.3.1.2. Trình tự giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Để giúp cho việc lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế phương pháp kiểm toán được thực hiện có hiệu quả, giám đốc kiểm toán và các kiểm toán viên cao cấp thường
lập chiến lược kiểm toán. Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 về kế hoạch kiểm toán, chiến lược kiểm toán là những định hướng cơ bản cho một cuộc kiểm toán dựa trên hiểu biết của kiểm toán viên về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và trọng tâm cuộc kiểm toán.
Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm kế hoạch kiểm toán tổng quát và kế hoạch kiểm toán cụ thể, gồm sáu bước công việc như sau:
Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lí của
khách hàng
Đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và soạn thảo chương trình kiểm toán
Sơ đồ 1.3. Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
1.3.2. Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát
1.3.2.1. Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
Quy trình kiểm toán bắt đầu khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán thu nhận một khách hàng. Thu nhận khách hàng là một quá trình gồm hai bước: thứ nhất, phải có sự liên lạc giữa KTV với khách hàng tiềm năng mà khách hàng này yêu cầu được kiểm toán và khi có yêu cầu kiểm toán, KTV phải đánh giá liệu có chấp nhận yêu cầu đó hay không? Còn đối với những khách hàng hiện tại, KTV phải quyết định liệu có tiếp tục kiểm toán hay không? Trên cơ sở đã xác định được đối tượng khách hàng có thể phục vụ trong tương lai, công ty kiểm toán sẽ tiến hành các công việc cần thiết để chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán bao gồm: đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán,
nhận diện các lí do kiểm toán, lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán và đạt được một hợp đồng kiểm toán.
- Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán
Kiểm toán viên phải đánh giá xem việc chấp nhận hay tiếp tục một khách hàng có làm tăng rủi ro cho hoạt động của KTV hay làm hại đến uy tín và hình ảnh của công ty kiểm toán hay không? Để làm được điều đó, KTV phải tiến hành các công việc như sau:
+ Xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng:
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 về Kiểm soát chất lượng đối với việc thực hiện một hợp đồng kiểm toán của một công ty kiểm toán cho rằng KTV phải xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng khi đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán. Một trong năm bộ phận của hệ thống kiểm soát chất lượng được xác định trong chuẩn mực này là việc thiết lập các chính sách và thủ tục về khả năng chấp nhận và tiếp tục khách hàng cũng như chấp nhận và tiếp tục hợp đồng kiểm toán. Đoạn 14 của chuẩn mực hương dẫn: các chính sách và thủ tục nên được thiết lập để quyết định có hay không việc chấp nhận hoặc tiếp tục quan hệ với khách hàng và để quyết liệu có lập một hợp đồng cụ thể cho khách hàng đó không? Và các chính sách thủ tục đó phải đảm bảo thích đáng rằng khả năng chấp nhận một khách hàng có ban quản lí thiếu liêm chính là nhỏ nhất. Thiết lập các chính sách và thủ tục đó không có nghĩa là công ty phải đảm bảo tính liêm chính hay sự tin cậy của khách hàng và cũng không có nghĩa là công ty kiểm toán có trách nhiệm đối với bất kì cá nhân hay tổ chức nào nhưng phải có trách nhiệm với bản thân công ty về việc chấp nhận, từ chối hay duy trì giữ khách hàng. Tuy nhiên, tính thận trọng gợi ý rằng công ty nên lựa chọn trong việc quyết định có quan hệ với khách hàng hay không và trong việc quyết định loại dịch vụ cho khách hàng.
Để đưa ra quyết định chấp nhận hay duy giữ, một khách hàng và tính liêm chính của ban quản trị doanh nghiệp khách hàng.
+ Tính liêm chính của ban giám đốc công ty khách hàng
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (CMKTVN) số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, tính liêm chính của Ban quản trị là bộ phận cấu thành then chốt của môi trường kiểm soát, đây là nền tảng cho tất cả các bộ phận khác của hệ thống kiểm soát nội bộ. Vì vậy, tính liêm chính của Ban quản trị rất quan trọng đối với quy trình kiểm toán bởi lẽ Ban quản trị có thể phản ánh sai các nghiệp vụ hoặc giấu giếm các thông tin dẫn tới các sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính. Thêm vào đó, CMKTVN số 240 về Gian lận và sai sót, nhấn mạnh tầm quan trọng về đặc thù của Ban quản trị và ảnh hưởng của nó tới môi trường kiểm soát như là nhân tố rủi ro ban đầu của việc báo cáo gian lận các thông tin tài chính. Nếu Ban quản trị thiếu liêm chính, KTV không thể dựa vào bất kì bản giải trình nào của Ban quản trị cũng như không thể dựa vào các sổ sách kế toán. Thêm vào đó, Ban quản trị đứng hàng đầu trong việc tạo ra
một môi trường kiểm soát vững mạnh. Những nghi ngại về tính liêm chính của Ban quản trị có thể nghiêm trọng đến nỗi KTV kết luận rằng cuộc kiểm toán không thể thực hiện được.
+ Liên lạc với KTV tiền nhiệm
Đối với những khách hàng tiềm năng: nếu khách hàng này trước đây đã được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán khác thì KTV mới phải chủ động liên lạc với KTV cũ vì đây là nguồn thông tin đầu tiên để đánh giá khách hàng. CMKT yêu cầu KTV kế tục quyết định có chấp nhận hợp đồng kiểm toán hay không; bao gồm: những thông tin về tính liêm chính của Ban quản trị; những bất đồng giữa Ban quản trị với KTV tiền nhiệm về các nguyên tắc kế toán, thủ tục kiểm toán hoặc các nguyên tắc kế toán, thủ tục kiểm toán hoặc các vấn đề quan trọng khác,…và lí do tại sao khách hàng thay đổi KTV. Ngoài ra, KTV có thể xem xét hồ sơ kiểm toán của KTV tiền nhiệm để hỗ trợ cho KTV kế tục trong việc lập kế hoạch kiểm toán.
Đối với những khách hàng mà trước đây chưa từng được công ty kiểm toán nào kiểm toán thì để có thông tin về khách hàng, KTV có thể thu thập các thông tin này thông qua việc nghiên cứu sách báo, tạp chí chuyên ngành, thẩm tra các bên thông tin về khách hàng sắp tới như ngân hàng, cố vấn pháp lí, các bên có mối quan hệ tài chính buôn bán với khách hàng…thậm chí có thể thuê các nhà điều tra chuyên nghiệp để điều tra về vấn đề cần thiết khác. Cách thu thập tin tức này cũng có thể áp dụng trong trường hợp khách hàng trước đây đã được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán khách hàng trước đây không đồng ý cho KTV mới tiếp xúc với KTV cũ hoặc do trước đây có những bất đồng nghiêm trọng giữa hai bên nên KTV tiền nhiệm không cung cấp đủ các thông tin cần thiết.
Hiện nay, các công ty kiểm toán lớn có xu hướng giảm dần các khách hàng có rủi ro kiểm toán để giảm thiểu rủi ro kiện tụng cho các cuộc kiểm toán có sai sót như các công ty có chứng khoán dao động thất thường, lí lịch không rò ràng. Bởi vì rủi ro kiện tụng cho cuộc kiểm toán làm công ty kiểm toán không những bị tổn thất lớn về mặt tài chính mà còn ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của công ty.
Đối với khách hàng cũ: Hằng năm, KTV cập nhật các thông tin về khách hàng và đánh giá xem liệu có rủi ro nào khiến KTV phải ngừng cung cấp các dịch vụ kiểm toán cho họ hay không? KTV có thể ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán cho khách hàng trong trường hợp hai bên có mâu thuẫn về các vấn đề như: phạm vi thích hợp của cuộc kiểm toán, loại báo cáo kiểm toán phải công bố, tiền thù lao hoặc giữa hai bên có những vụ kiện tụng hoặc trong trường hợp KTV cho rằng khách hàng thiếu liêm chính….từ những thông tin thu được, KTV có thể cân nhắc đánh giá khả năng chấp nhận hay tiếp tục kiểm toán cho khách hàng.