Ma Trận Rủi Ro Kiểm Soát Và Rủi Ro Tiềm Tàng

Ví dụ: Giả sử trong kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên xác định rủi ro kiểm toán 5%, rủi ro tiềm tàng 85%, rủi ro kiểm soát 60%.

Suy ra:

DR =

AR

=

IR ∗CR

0,05

0,85∗0,6

= 0,09


Giả sử trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phát hiện ra rằng hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém hơn lúc ban đầu, lúc này kiểm toán viên xác định lại rủi ro kiểm soát cao hơn lúc ban đầu, giả định trong trường hợp này là 70%. Để rủi ro kiểm toán vẫn ở mức chấp nhận được là 5% như ban đầu đã xác định, buộc kiểm toán viên phải mở rộng phạm vi kiểm toán, thu thập thêm nhiều bằng chứng kiểm toán làm cho rủi ro phát hiện giảm xuống. Rủi ro phát hiện được tính lại như sau:

DR =

AR

=

IR ∗CR

0,05

0,85∗0,7

= 0,08

Ý nghĩa của công thức:Bất cứ công ty kiểm toán nào cũng mong muốn rủi ro kiểm toán ở mức chấp nhận được vì rủi ro kiểm toán giúp việc điều phối giữa các công việc của các kiểm toán viên diễn ra một cách thuận lợi. AR luôn luôn không đổi và được xác định trước khi thực thi kiểm toán, còn IR và CR tồn tại độc lập với hoạt động kiểm toán. Từ công thức trên ta có thể thấy để duy trì DR ở mức thấp cho phép thì kiểm toán viên phải mở rộng phạm vi kiểm toán, điều này làm tăng hoặc giảm khối lượng công việc của kiểm toán viên.

Một câu hỏi được đặt ra là liệu trên thực tế, các công ty kiểm toán có tăng AR không?

Nếu các công ty kiểm toán tăng rủi ro kiểm toán, lúc này chi phí và thời gian kiểm toán sẽ giảm xuống, lợi nhuận sẽ tăng. Nhưng nếu tăng AR đồng nghĩa với việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến sai lầm hơn là ý kiến xác đáng, khả năng báo cáo tài chính vẫn còn sai sót trọng yếu. Và do đó nếu xét về mặt dài hạn, chất lượng và uy tín của công ty kiểm toán sẽ giảm sút, công ty sẽ mất dần khách hàng.

Để giúp kiểm toán viên có thể ước tính về mức độ rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được dựa trên rủi ro kiểm soát và rủi ro tiềm tàng, ta nghiên cứu ma trận sau:

Bảng 3.3. Ma trận rủi ro kiểm soát và rủi ro tiềm tàng



Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro kiểm soát

Cao

Trung bình

Thấp

Đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng

Cao

Thấp nhất

Thấp

Trung bình

Trung bình

Thấp

Trung bình

Cao

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Kiểm toán căn bản - 13

Thấp

Trung bình

Cao

Cao nhất


Trong đó:

- Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành ba mức: cao, trung bình và thấp.


- Vùng chữ in nghiêng thể hiện mức độ rủi ro phát hiện. Trong ma trận này, r ủi ro phát hiện được xem xét ở năm mức khác nhau: thấp nhất, thấp, trung bình, cao và cao nhất.

Qua ma trận thấy có mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa rủi ro phát hiện với rủi ro kiểm soát và rủi ro tiềm tàng. Nếu kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát ở mức cao thì rủi ro phát hiện phải ở mức thấp nhận nhằm đảm bảo rủi ro kiểm toán ở mức chấp nhận được. Ngược lại khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát ở mức thấp thì kiểm toán viên phải tăng thử nghiệm cơ bản, kiểm toán viên chấp nhận rủi ro phát hiện ở mức cao hơn nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán ở mức mong muốn.

3.5. Bằng chứng kiểm toán

3.5.1. Khái niệm và phân loại bằng chứng kiểm toán

3.5.1.1. Khái niệm

Theo chuẩn mực kiểm toán số 500:

“Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý kiến kiểm toán”.[7]

Bằng chứng kiểm toán bao gồm tài liệu, chứng từ, sổ kế toán, báo cáo tài chính và các tài liệu, thông tin từ những nguồn khác nhau”.

Như vậy, bằng chứng kiểm toán là cơ sở để chứng minh cho báo cáo kiểm toán, và bản chất của quá trình thực hiện kiểm toán là quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán được thu thập từ nhiều dạng khác nhau, có thể từ sổ sách, chứng từ kế toán hoặc thông qua các phương pháp kiểm toán như quan sát, phỏng vấn, gửi thư xác nhận…

Bằng chứng kiểm toán không chỉ là cơ sở pháp lý cho kết luận của kiểm toán viên mà còn tạo niềm tin cho các đối tượng quan tâm. Chính vì vậy, bằng chứng kiểm toán phải thỏa mãn những tiêu chuẩn nhất định.

3.5.1.2. Phân loại

1/ Phân loại bằng chứng kiểm toán theo nguồn gốc:

Căn cứ vào nguồn gốc của thông tin, tài liệu có liên quan đến hoạt động của đơn vị và báo cáo tài chính mà kiểm toán viên thu thập được trong quá trình kiểm toán, bằng chứng kiểm toán được chia thành:

-Bằng chứng kiểm toán do bên ngoài trực tiếp cung cấp cho kiểm toán như bảng xác nhận nợ phải trả của các chủ nợ hay các số dư tiền gửi ngân hàng xác nhận, các xác nhận đối chiếu của các nhà cung cấp, các nhà tiêu thụ ...

-Bằng chứng kiểm toán do bên ngoài lập và lưu tại đơn vị được kiểm toán như hóa đơn GTGT (liên 2), khế ước vay, sổ phụ ngân hàng...

-Bằng chứng kiểm toán do đơn vị lập luân chuyển ra ngoài sau đó quay về tại đơn vị như ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi...

-Bằng chứng do chính đơn vị lập và luân chuyển trong nội bộ của đơn vị như bảng chấm công, bảng thanh toán tiền lương, phiếu chi, phiếu thu, sổ quỹ, sổ cái....

2/Phân loại bằng chứng kiểm toán theo loại hình (dạng bằng chứng):

Việc phân chia kiểm toán theo loại hình hay dạng bằng chứng kiểm toán thì kiểm toán được chia thành:

-Bằng chứng vật chất: được kiểm toán viên thu thập trong quá trình kiểm kê, quan sát đó có thể là: Biên bản kiểm kê hàng tồn kho, tài sản cố định hay biên bản kiểm quỹ và các bằng chứng kiểm toán khác chứng minh cho cơ sở dẫn liệu về sự tồn tại…

Bằng chứng bằng vật chất có độ tin cậy cao nhất vì chúng được kiểm toán viên trực tiếp thu thập nhằm xác minh cho sự hiện hữu của tài sản.

-Bằng chứng tài liệu: là bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được thông qua các tài liệu, thông tin của các bên có liên quan. Thuộc loại này gồm:

- Các chứng từ, tài liệu do các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp cung cấp như: các giấy xác nhận, bằng chứng do bên thứ ba có liên quan đến bằng chứng tài chính của doanh nghiệp như cơ quan thuế, hải quan, bên bán, bên mua.

- Các tài liệu tính toán lại của kiểm toán viên về trích khấu hao tài sản cố định, tính giá thành, phân bổ chi phí, quá trình lấy số liệu để lập bằng chứng kiểm toán.

3/ Ngoài ra, các bằng chứng tài liệu cũng có tính thuyết phục nhưng độ tin cậy không cao bằng những bằng chứng vật chất như:

- Bằng chứng được thu thập thông qua phỏng vấn:đây là loại bằng chứng có độ tin cậy thấp nhất được kiểm toán viên thu thập thông qua phỏng vấn đối với những người có liên quan. Đây là loại bằng chứng chứng minh cho những ý kiến của kiểm toán viên.

- Ý kiến chuyên gia:

Trên thực tế, trong nhiều trường hợp kiểm toán viên không thể am hiểu hết mọi lĩnh vực hoạt động trong doanh nghiệp. Chính vì vậy, lúc này kiểm toán viên phải sử dụng ý kiến của các chuyên gia.

Ví dụ: Đánh giá ngoại tệ hay vàng bạc, kim khí quý, đá quý. Đánh giá thời gian hữu ích của TSCĐ hay thẩm định giá đất đai.

Trong quá trình kiểm toán, cho dù sử dụng ý kiến của các chuyên giá làm bằng chứng kiểm toán thì các chuẩn mực kiểm toán vẫn đòi hỏi kiểm toán viên phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về ý kiến nhận xét trên báo cáo kiểm toán. Chính vì vậy, kiểm toán viên cần phải xem xét các vấn đề sau khi sử dụng chuyên gia:

+ Trình độ của chuyên gia: Thông qua bằng cấp, giấy phép hành nghề và uy tín của họ trong quá trình hoạt động.

+Tính độc lập của các chuyên gia: Kết quả kiểm tra của các chuyên gia sẽ không đảm bảo nếu chuyên gia có bất kỳ mối quan hệ lợi ích về tình cảm hay kinh tế với doanh nghiệp được kiểm toán.

+ Đảm bảo các chuyên gia đã xác định được mục đích của cuộc kiểm toán cũng như tính bảo mật số liệu.

+Đánh giá lại kết luận của các chuyên gia như: Xem xét các nguồn số liệu có đầy đủ và phù hợp không, các bằng chứng do chuyên gia thu thập có chứng minh cho kết luận của họ không…

- Thư giải trình của nhà quản lý:

Thư giải trình được Ban giám đốc lập sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện kiểm toán. Nó là một văn bản trình bày tóm tắt các nội dung trao đổi giữa nhà quản lý với kiểm toán viên về những vấn đề phát sinh trong quá trình kiểm toán, đồng thời khẳng định trách nhiệm của Ban giám đốc trong việc lập và cung cấp tài liệu đầy đủ cho kiểm toán viên.

Tuy thư giải trình không phải là bằng chứng có độ tin cậy cao và không thể thay thế cho các thủ tục kiểm toán của kiểm toán viên. Nhưng nếu Ban giám đốc từ chối cung cấp giải trình này, khi đó kiểm toán viên có thể đánh giá phạm vi kiểm toán bị giới hạn và đưa ra các ý kiến chấp nhận từng phần hoặc từ chối.

Thư giải trình được lập cùng ngày với báo cáo kiểm toán và được ký bởi Giám đốc và kế toán trưởng đơn vị.

- Sử dụng tư liệu của kiểm toán viên nội bộ:

Kiểm toán viên độc lập chỉ sử dụng kết quả của kiểm toán nội bộ khi có bằng chứng cho rằng có thể tin cậy vào kết quả kiểm toán của kiểm toán viên nội bộ.

Để có thể đánh giá được độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên có thể căn cứ vào một số tiêu chí sau:

+ Cơ cấu tổ chức:

Kiểm toán nội bộ là một bộ phận chức năng của đơn vị, tuy được tổ chức độc lập với các bộ phận khác trong đơn vị nhưng về mặt bản chất, kiểm toán nội bộ chỉ là những nhân viên bên trong công ty, hưởng lương của công ty và chịu sự chỉ đạo của cấp cao nhất trong đơn vị.

Chính vì vậy, kiểm toán viên phải xem xét cẩn thận những kết quả do kiểm toán nội bộ cung cấp bởi tính khách quan và độc lập có thể bị ảnh hưởng trong quá trình họ thực thi kiểm toán theo yêu cầu của Ban lãnh đạo.

+ Phạm vi hoạt động:

Kiểm toán viên độc lập phải xem xét bản mô tả công việc do Ban lãnh đạo công ty phân công cho kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời trong quá trình kiểm tra, kiểm toán viên phải tiến hành xem xét cả tính hợp lý trong sự phân công công việc của nhà quản lý.

+ Trình độ kỹ thuật:

Là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả của cuộc kiểm toán. Để đánh giá yếu tố này, kiểm toán viên phải xét đến qui trình tuyển dụng cũng như bằng cấp của kiểm toán viên nội bộ.

+Nghĩa vụ thận trọng nghề nghiệp:

Kiểm toán viên phải xem xét trong quá trình kiểm tra, kiểm toán viên nội bộ có thực hiện lập kế hoạch, giám sát và thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán để chứng minh cho các cơ sở dẫn liệu không. Hồ sơ kiểm toán, kế hoạch, chương trình là cơ sở để kiểm toán viên đôc lập tiến hành kiểm tra.

Sau khi nghiên cứu, kiểm toán viên độc lập có thể sử dụng các kết quả kiểm toán của kiểm toán viên nội bộ nhằm giảm bớt các thủ tục kiểm toán hoặc có thể kiểm tra lại kết quả của họ nếu nghi ngờ.

- Bằng chứng về các bên hữu quan:

Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên độc lập phải xem xét đến những tác động quan trọng đối với báo cáo tài chính do bên hữu quan mang lại nhằm đảm bảo cho người sửdụng hiểu được bản chất của báo cáo tài chính.

Bên hữu quan ở đây có thể được hiểu là các đơn vị trực thuộc công ty.

Xuất phát từ tầm quan trọng đó, kiểm toán viên phải có trách nhiệm nhận diện các bên hữu quan trong quá trình kiểm toán thông qua các thủ tục sau:

+ Biết tên tất cả các bên hữu quan của doanh nghiệp.

+ Thẩm tra lại sự tham gia của nhà quản lý đối với doanh nghiệp khác.

+ Xem xét lại sổ theo dòi các cổ đông để soát xét lại các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông chủ yếu.

+ Xem xét lại các bên hữu quan của niên độ trước đó.

+ Xem xét biên bản họp Hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị.

+ Xem xét báo cáo phân chia lợi tức và thuế thu nhập doanh nghiệp.

3.5.2. Yêu cầu đối với bằng chứng kiểm toán

Bằng chứng kiểm toán là cơ sở để kiểm toán viên rút ra được các kết luận hợp lý về quá trình kiểm toán, là cơ sở cho việc nhận định các thông tin tài chính.

Chính vì bằng chứng kiểm toán là cơ sở cho kiểm toán viên nên bằng chứng phải đạt được những yêu cầu nhất định về số lượng và chất lượng. Trong kiểm toán có một thuật ngữ dùng để diễn tả 2 yêu cầu này: Có hiệu lực và đầy đủ.

Đoạn 8, chuẩn mực kiểm toán số 400 có nêu:“… Có hiệu lực là tiêu chuẩn thể hiện chất lượng, độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán.

Đầy đủ là tiêu chuẩn thể hiện số lượng bằng chứng kiểm toán”.

3.5.2.1. Tính hiệu lực

Tính hiệu lực là khái niệm dùng để chỉ độ tin cậy hay chất lượng của bằng chứng kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán được xem là có giá trị (đảm bảo tính hiệu lực) thì nó sẽ giúp ích rất nhiều trong việc kiểm toán viên đưa ra các nhận định xác đáng.

Để xem xét tính hiệu lực của bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên cần chú ý các nhân tố sau đây:

1/Nguồn gốc của bằng chứng kiểm toán

Việc xác định nguồn gốc của bằng chứng kiểm toán cho thấy mức độ độc lập của bằng chứng đối với đơn vị được kiểm toán. Độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán cho thấy mức độ độc lập của bằng chứng kiểm toán, điều này có nghĩa là mức độ độc lập càng tăng thì độ tin cậy càng cao. Dưới đây là một loạt các bằng chứng kiểm toán được sắp xếp theo mức độ giảm dần:

- Bằng chứng do bên ngoài cung cấp trực tiếp cho kiểm toán viên.

Ví dụ: Thư xác nhận được kiểm toán viên gửi trực tiếp cho đại lý, khách hàng hoặc ngân hàng và được các đối tượng này gửi lại cho kiểm toán viên.

- Bằng chứng do người bên ngoài đơn vị lập nhưng được lưu giữ tại đơn vị.

Ví dụ: Hóa đơn GTGT (liên 2), sổ phụ ngân hàng ...

- Bằng chứng do đơn vị phát hành và luân chuyển ra ngoài đơn vị, sau đó quay trở lại đơn vị.

Ví dụ: Các ủy nhiệm chi (đã thanh toán)

- Các bằng chứng do đơn vị phát hành và luân chuyển trong nội bộ đơn vị.

Ví dụ: Các phiếu xuất vật tư, phiếu chi, hóa đơn GTGT (liên 1) ...

2/ Dạng bằng chứng kiểm toán

Độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán không chỉ phụ thuộc vào nguồn gốc mà còn phụ thuộc vào dạng bằng chứng kiểm toán.

- Các bằng chứng vật chất (kiểm kê hoặc tham gia kiểm kê) và các hiểu biết trực tiếp của kiểm toán viên về lĩnh vực kiểm toán được xem là hai dạng bằng chứng có độ tin cậy cao nhất.

-Các bằng chứng tài liệu có độ tin cậy kém hơn bằng chứng vật chất.

- Các bằng chứng thu thập qua phỏng vấn có độ tin cậy thấp hơn các bằng chứng tài liệu.

3/Hệ thống kiểm soát nội bộ

Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết lập nhằm phát hiện và ngăn chặn những gian lận và sai sót. Chính vì vậy, bộ phận nào có hệ thống kiểm soát nội bộ được tổ chức tốt thì sổ sách, chứng từ kế toán có độ tin cậy cao hơn, bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao hơn.

4/ Sự kết hợp giữa các bằng chứng kiểm toán

Việc kết hợp các bằng chứng từ những nguồn khác nhau, từ những dạng khác nhau để xem xét sẽ giúp tăng độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán.

Ngược lại, khi bằng chứng từ các nguồn khác nhau lại cho kết quả trái ngược nhau, lúc này kiểm toán viên phải xem xét vấn đề một cách thận trọng và giải thích được sự khác biệt đó.

5/Các nhân tố khác

Một bằng chứng kiểm toán còn có giá trị khi bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được phù hợp với cơ sở dẫn liệu. Nói cách khác, bằng chứng phải phù hợp với đúng nội dung, bản chất nghiệp vụ kinh tế, phù hợp với đúng mục tiêu kiểm toán.

Ví dụ: Để chứng minh cho cơ sở dẫn liệu về sự hiện hữu khoản mục hàng tồn kho, kiểm toán viên sẽ tiến hành kiểm kê. Nhưng việc kiểm kê lại không chứng minh được cho cơ sở dẫn liệu về sự đánh giá. Muốn chứng minh cơ sở dẫn liệu này, kiểm toán viên phải xem xét phương pháp tính giá hàng tồn kho… Như vậy, cho dù kiểm kê là dạng bằng chứng vật chất có độ tin cậy cao nhất thì nó vẫn không phù hợp trong trường hợp này.

3.5.2.2. Tính đầy đủ

Đầy đủ là khái niệm về số lượng bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên dựa vào đó để đưa ra kết luận của mình.

Đây là một vấn đề không có thước đo chung, mà đòi hỏi rất lớn ở sự xét của kiểm toán viên. Các chuẩn mực kiểm toán thường chấp nhận kiểm toán viên thu thập bằng chứng kiểm toán ở mức độ “có tính chất thuyết phục hơn là có tính chất kết luận”.

Trên thực tế, tính xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên có thể bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:

- Sự “có hiệu lực”của các bằng chứng kiểm toán: Độ tin cậy của các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được ảnh hưởng đến số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Cụ thể là khi bằng chứng có độ tin cậy cao thì số lượng chỉ cần ít cũng có thể đã đủ để làm cơ sở cho ý kiến của kiểm toán viên.

- Tính trọng yếu: Khoản mục nào có tính trọng yếu thì cũng đồng nghĩa với việc kiểm toán viên cần phải thu thập thêm nhiều bằng chứng kiểm toán hơn.

Ví dụ: Kiểm toán viên sẽ tiến hành chọn mẫu đề kiểm tra khoản mục hàng tồn kho, nhưng đối với khoản mục nợ dài hạn do tính trọng yếu của khoản mục này mà kiểm toán viên sẽ kiểm tra toàn bộ các bằng chứng kiểm toán liên quan.

- Mức rủi ro: Khi kiểm toán viên xác định rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát ở mức cao thì rủi ro phát hiện ở mức thấp. Lúc này, số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập sẽ tăng lên.

- Tính kinh tế của một cuộc kiểm toán: Sự giới hạn về thời gian và chi phí của một cuộc kiểm toán đã buộc các kiểm toán viên không thể tiến hành kiểm toán toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị mà chỉ tiến hành chọn mẫu để kiểm tra. Chính vì vậy, việc thu thập bằng chứng của kiểm toán viên chỉ mang tính thuyết phục chứ không nhằm chứng minh tính chính xác tuyệt đối.

3.5.3. Kĩ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán

Để có thể thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có hiệu lực, kiểm toán viên thường áp dụng các kỹ thuật sau đây:

3.5.3.1.Kiểm tra đối chiếu

Là sự xem xét các tài liệu ghi chép và các tài sản hữu hình bằng cách rà soát, đối chiếu giữa chúng với nhau, giữa sổ sách và thực tế, giữa quy định và thực hiện. Thường bao gồm hai loại:

- Kiểm tra vật chất: Bao gồm việc kiểm kê hoặc tham gia kiểm kê tài sản thực tế về hàng hoá, vật tư tồn kho, máy móc thiết bị, nhà xưởng, tiền mặt tồn quỹ ...loại kiểm tra này cung cấp bằng chứng vật chất là loại bằng chứng có độ tin cậy cao. Tuy nhiên, bằng chứng vật chất có những hạn chế nhất định:

+ Đối với tài sản cố định như phương tiện vận tải, máy móc thiết bị, đất đai…thủ tục kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của tài sản đó nhưng không nói lên quyền sở hữu đối với tài sản đó, điều này có nghĩa là tài sản hiện hữu tại đơn vị có thể là đi thuê hoặc thuế chấp.

+ Đối với hàng tồn kho, thủ tục kiểm kê chỉ cho biết số lượng hàng tồn kho tại đơn vị nhưng không cho biết chúng được đánh giá như thế nào, chất lượng và tình trạng hiện tại. Mặt khác, thủ tục kiểm kê cũng không giúp kiểm toán viên xác định được trong số hàng tồn kho của đơn vị có hàng hóa nhận giữ hộ, bán hộ không.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí