Những Hạn Chế Và Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế Trong Việc Áp Dụng Basel Ii

Thứ hai, hoạt động QTRR, đặc biệt là QTRR tín dụng được tăng cường và đổi mới, phù hợp với các tiêu chuẩn của Basel II, giúp việc QTRR tín dụng tại các NHTM Việt Nam trở nên hiệu quả và chặt chẽ hơn.

Thứ ba, các NHTM đã bước đầu xây dựng hệ thống QTRR tín dụng và rủi ro thị trường của riêng mình.

Bốn là, về thanh tra, giám sát NH. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được thành lập theo Quyết định 83/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 với mục tiêu hình thành nên bộ máy thanh tra giám sát có chất lượng, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Hoạt động thanh tra vẫn còn nhiều thách thức như: chưa tuân thủ được hết 29 nguyên tắc thanh tra giám sát của Basel II; phương pháp giám sát mới đang tiếp cận thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro; việc tiếp cận thông tin phục vụ công tác thanh tra còn nhiều khó khăn; các mô hình định lượng phục vụ thanh tra, giám sát còn thiếu; hạ tầng công nghệ thông tin mới ở mức đơn giản; thiếu và yếu về nhân lực thực hiện.

Khung pháp lý về giám sát, thanh tra ngân hàng ngày càng được hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý, tăng cường cạnh tranh, bảo đảm các nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc ban hành Luật NHNN; Luật TCTD (kể cả sửa đổi); Luật Thanh tra thay thế dần các văn bản dưới luật đã góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực công tác giám sát ngân hàng, tạo điều kiện cho việc hình thành và kiện toàn mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra ngân hàng cho phù hợp với thực tiễn; định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình, thủ tục và các chế tài về thanh tra ngân hàng.

Các quy định mới về thanh tra, giám sát ngân hàng đã tập trung vào thanh tra, giám sát theo rủi ro, thay vì thanh tra, giám sát tuân thủ như trước đây.

Kết quả thực hiện trụ cột 2 theo Basel II:

Nội dung giám sát từng bước được đổi mới để theo kịp với sự phát triển của hoạt động ngân hàng và các yêu cầu Basel II. Cùng với sự phát triển của thị trường, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN không chỉ kiểm tra tính tuân thủ của các ngân hàng, mà bước đầu đã xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu giám sát ngân hàng mang tính cảnh báo rủi ro cho hoạt động của từng NHTM cũng như hệ thống ngân hàng. Tính đến năm 2016, Việt Nam đã đáp ứng được 6 trong tổng số 25 nguyên tắc giám sát của Basel (gồm: Chuyển đổi quyền sở hữu lớn; Các sáp nhập cơ bản; An toàn vốn; Giới hạn tín dụng với khách hàng lớn; Rủi ro thanh khoản; Kiểm toán và KSNB).

Cách tổ chức giám sát được đổi mới, từ chỗ chủ yếu tập trung thanh tra tại chỗ nhằm kiểm tra tính tuân thủ của các NHTM đã mở rộng hoạt động giám sát từ xa (dựa trên thông tin nhận được) theo các chuẩn mực trong nước và quốc tế (CAMELS/Basel). Hoạt động giám sát từ xa đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố chất lượng hoạt động thanh tra tại chỗ.

Năm là, về kiểm soát sự tuân thủ nguyên tắc thị trường và minh bạch thông tin

Đối với các NHTM, đã có đầy đủ các quy định liên quan tới việc công khai, minh bạch thông tin kinh doanh của ngân hàng trên phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các Báo cáo tài chính được kiểm toán hàng năm. Bên cạnh đó, tất cả các NHTM đều đã xây dựng cho riêng mình các trang web tiếng Việt riêng theo quy định để đảm bảo mọi người dân đều có thể tiếp cận tới thông tin, chính sách của NHTM một cách nhanh nhất và thuận lợi nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Ngân hàng nhà nước chuẩn hóa kiện toàn hoạt động của Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC), đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ thông tin của CIC, tập trung vào định hướng hỗ trợ việc thực thi các quy định của Basel II đối với các TCTD như việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia đầy đủ, phản ánh được chính xác, kịp thời dữ liệu từ các đơn vị trong và ngoài ngành, đáp ứng tốt nhu cầu về dữ liệu cho các NHTM thực hiện Basel II; cung cấp thông tin kịp thời cho NHTM, phục vụ xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng, chấm điểm tín dụng và xây dựng các báo cáo phân tích ngành; cung cấp thông tin cho cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng để tăng cường công tác thanh tra, giám sát NHTM; nâng cấp hệ thống xếp hạng tín dụng của CIC; triển khai hoạt động đăng ký tín dụng… Bên cạnh đó, hầu hết các NHTM đều đã triển khai công bố thông tin minh bạch với cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại. Mặc dù sự ra đời của Thông tư 41 đã hướng việc công bố thông tin của NHTM phù hợp với chuẩn mực quốc tế Basel II nhưng do Thông tư 41 mới ban hành trong thời gian ngắn nên số liệu đánh giá thực trạng công bố thông tin của NHTM còn hạn chế.

Kết quả thực hiện trụ cột 3 của Basel II:

Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II - 14

Chất lượng nguồn lực và cơ sở vật chất phục vụ công tác báo cáo thống kê từng bước được nâng cao. Đội ngũ làm công tác báo cáo thống kê thường xuyên được đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn. Hệ thống máy móc công nghệ được đầu tư, cải tiến hệ thống biểu mẫu báo cáo nhằm đảm bảo đủ chỉ tiêu báo cáo theo yêu cầu; thay đổi quy trình nghiệp vụ nhằm quản lý tốt nhất chất lượng thông tin trên hệ thống (tách rời độc lập bộ phận tác nghiệp số liệu trên hệ thống)…

Sáu là, về công tác triển khai Basel II: NHNN đã thành lập Ban chỉ đạo triển khai Basel II tại NHNN và tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng; đến nay bước đầu đã thực hiện đánh giá thực trạng, khoảng cách về QTRR của NHTM với các quy định của Basel II. Mở rộng, nâng cao vai trò của Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) theo hướng hỗ trợ NHTM thực hiện Basel II như xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, cung cấp kịp thời thông tin cho tổ chức tín dụng, nâng cấp bộ máy xếp hạng tín dụng…

Bảy là, về việc triển khai áp dụng Basel II tại 10 ngân hàng thí điểm: kết quả ban đầu cho thấy hầu hết các ngân hàng đã thành lập Ban Quản lý dự án Basel II; thuê đơn vị tư vấn triển khai thực hiện dự án phân tích độ lệch cơ sở dữ liệu (Data Gap), nghiên cứu 19 thực hiện quy trình đánh giá vốn rủi ro (ICAAP), lập kế hoạch triển khai thực hiện Basel II; lập báo cáo đánh giá tác động định lượng (QIS) theo hướng dẫn tại Thông tư 41; thực hiện các dự án xây dựng hệ thống khởi tạo các khoản vay (LOS - Loan Origination System), dự án nâng cấp hệ thống xếp hạng nội bộ (Credit Rating System), dự án hoàn thiện khung quản lý rủi ro thị trường; dự án tính toán tài sản có rủi ro RWA theo Basel II; dần hoàn thiện mô hình quản lý rủi ro theo 3 tuyến phòng ngự… Riêng Techcombank thực hiện chiến lược đầu tư hệ thống ngân hàng lõi T24 của Thụy Sĩ phù hợp với thông lệ quốc tế.

3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng Basel II

3.3.2.1. Về việc kiểm soát việc đáp ứng yêu cầu vốn tối thiểu

a. Hạn chế

Về khung khổ pháp lý, khung chính sách về CAR:

Thứ nhất, công thức tính CAR hiện đang được áp dụng trong hệ thống (đến 31/12/2019) chỉ tính tới RRTD, chưa phản ánh chính xác mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bên cạnh đó, hiện nay ở các nước, hệ số CAR của các ngân hàng thường ở mức 12% nên việc quy định hệ số CAR ở Việt Nam là 8% chưa hẳn mang lại sự an toàn cho toàn hệ thống.

Thứ hai, việc nâng mức vốn điều lệ (lên 3.000 tỷ đồng) và mức an toàn vốn đối với NHTM để tăng hệ số CAR cho toàn hệ thống có thể phát sinh thêm rủi ro khác. Bởi tăng vốn điều lệ chỉ có tác dụng làm tăng CAR trong ngắn hạn, còn trong dài hạn, hệ số CAR không thể duy trì ở mức cao. Hoặc giả sử nếu điều này thành công thì ngân hàng sẽ đối mặt với sự gia tăng về rủi ro hoạt động.

Thứ ba, chưa có sự phân cấp trong việc áp dụng CAR đối với các ngân hàng: Đối với trụ cột 1, Ủy ban Basel đã đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau cho các ngân hàng có quy mô, đặc điểm khác nhau, và các ngân hàng có thể tự lựa chọn cách tiếp cận cho riêng mình, thích hợp với đặc điểm phát triển. Tuy nhiên, tại Việt Nam, quy tắc xác định CAR áp dụng chung cho tất cả các ngân hàng.

Thứ tư, chưa chú trọng nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng, tiêu chí đánh giá tín dụng chưa cụ thể: Các quy trình đánh giá tín dụng đòi hỏi độ chính xác cao với các kỹ thuật phức tạp. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành (cụ thể là tại Thông tư số 13), việc đưa vào các quy trình đánh giá tín dụng nhưng lại không quy định rõ ràng các tiêu chí đánh giá; cũng như chưa chú trọng công tác nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng là những bất cập không thể không kể tới.

Thứ năm, phương pháp xác định RRTD của các NHTM Việt Nam có sự khác biệt xa so với phương pháp xác định RRTD của Basel. Bởi các quy định phân loại nợ của NHTM Việt Nam hiện nay vẫn dựa trên các thông số có tính bề mặt như số ngày gia hạn nợ và số ngày chuyển sang nợ quá hạn…

Thứ sáu, chưa xây dựng một khung chính sách QTRR đầy đủ và thống nhất cho các NHTM Việt Nam đối với RRTT và RRTN. Đây được xem là thiếu sót lớn bởi việc chậm trễ đưa ra các quy định quản trị đối với 02 rủi ro này dẫn tới việc các NHTM không thể xây dựng cho mình một khuôn khổ QTRR hiệu quả đối với 02 loại rủi ro này hoặc nếu có cũng sẽ gây ra sự bất cập, khác biệt giữa các mô hình quản trị riêng của các ngân hàng khác.

Thứ bảy, mặc dù NHNN có đưa ra yêu cầu đối với NHTM về việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (XHTDNB) (Điều 5, Thông tư số 02) nhưng đến nay NHNN chưa đưa ra hệ thống quy chuẩn chung cho việc xây dựng hệ thống này tại các NHTM, dẫn tới việc mỗi hệ thống tại mỗi NHTM được xây dựng theo “khẩu vị” rủi ro của họ, tạo ra bất cập trong việc so sánh, đánh giá cùng một đối tượng khách hàng nhưng lại có nhiều kết quả khác nhau.

b. Nguyên nhân của hạn chế

Thứ nhất, còn những hạn chế trong công tác quản trị RRTD tại các NHTM bởi hiện nay việc phân loại nợ đối với các khoản vay thường dựa trên các thông số đơn giản, có tính bề nổi. Các yếu tố định tính khác phản ánh đúng chất lượng và khả năng thu nợ của khoản vay như tình hình tài chính khách hàng, rủi ro trong kinh doanh, rủi ro phi tài chính… đều chưa được đưa vào hệ thống tính điểm tín dụng của các NHTM Việt Nam.

Thứ hai, hạn chế trong công tác quản trị RRTT và RRTN. Hiện nay, chưa có một quy định chung, đầy đủ và thống nhất quy định về hoạt động QTRR đối với 02 loại rủi ro này nên các NHTM chưa thể xây dựng một mô hình QTRR thống nhất. Mặc dù đã có một số NHTM xây dựng cho mình một cơ cấu tổ chức quản trị RRTN riêng, song những mô hình này, so với thông lệ quốc tế, còn rất nhiều bất cập như chưa thành lập Hội đồng quản trị RRTN; Ủy ban quản lý RRTN…

Thứ ba, hoạt động XHTDNB của các NHTM Việt Nam gặp nhiều hạn chế như:

(i) Hệ thống XHTDNB hiện nay đều xây dựng theo phương pháp chuyên gia, dựa trên quan điểm chủ quan của các chuyên gia thay vì dựa trên dữ liệu thống kê lịch sử và mô hình kinh tế lượng. Điều này dẫn tới kết quả xếp hạng nội bộ mang tính chủ quan, không thực sự chính xác trong việc lượng hóa rủi ro; (ii) Mỗi ngân hàng tự xây dựng một hệ thống XHTDNB riêng, thiếu khung thống nhất, dẫn tới tốn kém nguồn lực và không thể so sánh hiệu quả đo lường rủi ro giữa các NHTM.

Thứ tư, hệ thống XHTD độc lập tại Việt Nam còn non kém; hệ thống thông tin cơ sở chưa thực sự đủ lớn, đa dạng và có chất lượng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng XHTD tại các NHTM Việt Nam, khi mà hệ thống XHTD nội bộ tại mỗi NHTM chưa thực sự thống nhất, và cần có một cơ sở tham khảo về hạng tín dụng khách hàng để tham chiếu.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực tế hoạt động QTRR trong NHTM cũng như việc đảm bảo CAR trong ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, đó là:

Hệ thống văn bản pháp lý quy định và điều tiết còn nhiều lỗ hổng;

Hệ thống thông tin tín dụng, quản lý ngân hàng còn thiếu cả về chất và lượng; thiếu tính kịp thời, chính xác để xem xét, phân tích và đo lường rủi ro.

Việc XHTD độc lập và nội bộ tại các NHTM gây khó khăn cho việc cấp tín dụng và lựa chọn mô hình áp dụng Basel II hiệu quả do chưa có khung khổ thống nhất áp dụng đối với toàn bộ ngành ngân hàng và thị trường chưa có nhiều tổ chức XHTD độc lập để có thể cung cấp kết quả XHTD cho NHTM tham khảo.

Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng không đáp ứng yêu cầu về QTRR. Việc áp dụng các thông lệ quốc tế tiên tiến vào QTRR trong ngân hàng đòi hỏi một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có mức độ hiểu biết vừa tổng hợp, vừa chuyên sâu về kinh tế, pháp luật, ngoại ngữ… Có như vậy mới hiểu và có thể áp dụng được các yêu cầu khắt khe về QTRR trong ngân hàng.

Sự chia sẻ thông tin giữa các NHTM và giữa NHTM với NHNN còn thiếu và yếu. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả áp dụng Basel II tại Việt Nam bởi

quá trình áp dụng Basel II là quá trình của cả một hệ thống, chứ không phải là quá trình của bất cứ một cá nhân, hay một NHTM nào.

3.3.2.2. Về thanh tra, giám sát ngân hàng

a. Hạn chế

Một là, hạn chế trong khung khổ chính sách. Sự bất cập và chồng chéo trong quy định pháp luật về thẩm quyền giám sát ngân hàng ở Việt Nam. Từ những quy định hiện nay cho thấy hoạt động giám sát ngân hàng do bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam và NHNN Việt Nam cùng thực hiện. Điều này tạo ra sự chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ của 2 cơ quan, đồng thời gây tốn kém chi phí xã hội khi 2 cơ quan cùng thực hiện một chức năng; tạo gánh nặng cho TCTD phải chịu sự thanh tra từ 02 cơ quan khác nhau; và gây khó khăn cho TCTD trong trường hợp kết luận thanh tra không thống nhất.

Hai là, trong hoạt động giám sát của tổ chức BHTG:

(i) Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam mới chỉ làm tốt mục tiêu thứ nhất là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, còn mục tiêu góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD và bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng chưa thực hiện tốt.

(ii) Chưa có cơ chế pháp lý bảo đảm việc thực hiện quyền giám sát của tổ chức BHTG. Do đó, việc các tổ chức tham gia BHTG có thực hiện cam kết của họ hay không là “quyền” của họ và điều này đã làm ảnh hưởng tới giá trị các kết luận giám sát của tổ chức BHTG.

(iii) Trong quá trình giám sát tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTG có thể phát hiện ra những sai phạm, nhưng không có thẩm quyền để xử lý. Trong khi đó, pháp luật hiện hành chưa có quy định về cơ chế phối hợp giữa BHTG và các cơ quan hữu quan trong xử lý vi phạm của tổ chức tham gia BHTG. Điều này có thể sẽ ảnh hưởng tới kết luận giám sát của tổ chức BHTG.

Ba là, trong hoạt động giám sát của NHNNc:

(i) Mặc dù đã có quy định phân biệt nội dung của hoạt động thanh tra và giám sát ngân hàng, song việc phân biệt này vẫn chưa rõ, dẫn tới việc quy định mục đích, nguyên tắc thanh tra, giám sát ngân hàng còn giống nhau. Điều này sẽ làm cho việc xác định mục đích, vai trò và vị trí các hoạt động này trong TCTD không rõ ràng, từ đó làm giảm hiệu quả so với mong muốn.

(ii) Mặc dù Luật NHNN năm 2010 đã bổ sung thêm nhiều quy định về giám sát rủi ro ngân hàng, song hoạt động giám sát ngân hàng vẫn chưa phát huy được

vai trò trong việc giám sát thị trường ngân hàng. Cụ thể như trong năm 2011, là năm có nhiều biến động theo chiều hướng xấu, nhưng Cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng không đưa ra được khuyến cáo cần thiết nào để định hướng thị trường. Điều này cho thấy công tác giám sát, thanh tra trong ngân hàng của NHNN còn rất chậm và rất bị động.

(iii) Cho đến nay, NHNN Việt Nam vẫn chưa có một văn bản nào quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ cũng như trình tự thực hiện của công tác thanh tra, giám sát tại các NHTM. Do đó, các NHTM Việt Nam cũng không có cơ sở nào để ban hành văn bản quy định hoặc hướng dẫn quy trình thực hiện kiểm tra kiểm soát trong nội bộ NHTM. Điều này gây ra những hạn chế nhất định đến chất lượng công tác thanh tra, giám sát NHTM hiện nay.

(iv) Cơ chế phối hợp trong công tác thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN với cơ quan có liên quan còn thiếu chặt chẽ. Mặc dù trong Luật NHNN năm 2010 có quy định NHNN cần phối hợp với với cơ quan Chính phủ khác, nhưng dường như sự hợp tác chỉ dừng lại ở khía cạnh kinh tế và tiếp cận dịch vụ ngân hàng chứ chưa đi sâu vào vấn đề an toàn hoạt động.

(v) Chưa có quy định về việc bảo vệ đối với đội ngũ thanh tra, giám sát ngân hàng khi thực hiện nhiệm vụ một cách hợp lý.

(vi) Một số lĩnh vực thanh tra, giám sát ngân hàng còn thiếu các quy định cụ thể. Ví dụ như chưa có các quy định hỗ trợ áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro; thiếu quy định làm nền tảng cho hoạt động thanh tra như quy trình thanh phúc tra, quy chế xem xét khiếu nại, tố cáo…;

(vii) Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng được quy định tại nhiều văn bản khác nhau, tuy nhiên, những văn bản này có nhiều trường hợp chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ làm cho việc áp dụng của các TCTD chưa thống nhất; căn cứ để thanh tra ngân hàng kết luận vi phạm của TCTD không đầy đủ, chặt chẽ làm cho hiệu lực thanh tra bị hạn chế.

Bốn là, đối với kết quả thực hiện thanh tra, giám sát theo Basel II:

Mặc dù Việt Nam đang từng bước áp dụng Basel II trong giám sát hoạt động của ngân hàng nhưng trên thực tế, hoạt động giám sát, thanh tra của các cơ quan quản lý còn nhiều điểm bất cập. Có thể nhận thấy một số điểm yếu như sau:

(i) Sự yếu kém trong quá trình theo dõi, giám sát, bao gồm tính minh bạch và chất lượng các báo cáo; sự phát triển, đổi mới của hệ thống tài chính tạo ra những sản phẩm lai ghép, do đó, công tác giám sát cũng gặp khó khăn hơn. Sự thiếu minh bạch trong xây dựng và báo cáo gây cản trở cho khả năng nắm bắt tình hình thực tế

tại cơ quan chức năng bởi hệ thống kế toán của Việt Nam chưa thực sự hoàn thiện, thống nhất, được quy định tại nhiều văn bản khác nhau. Điều này dẫn tới việc công bố thông tin trên thị trường không minh bạch, cũng như gây khó khăn cho việc đánh giá giữa các TCTD khác nhau.

(ii) Sự không tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn thế giới trong việc giám sát dựa trên rủi ro đã góp phần làm bộc lộ tính yếu kém của công tác điều tiết, giám sát. Việc vẫn còn nhiều khác biệt giữa các tiêu chuẩn an toàn hoạt động, kế toán và kiểm toán của Việt Nam với tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế khiến khả năng áp dụng các chỉ tiêu an toàn hoạt động tài chính không mang lại kết quả như ý muốn; gây ra một số khó khăn khi thực hiện giám sát các TCTC quốc tế có hoạt động tại Việt Nam.

(iii) Sự thiếu rõ ràng trong việc phân tách chức năng, nhiệm vụ cũng như cơ chế phối hợp điều tiết giữa các cơ quan chức năng trong việc xử lý các vấn đề tài chính. Việc các cơ quan giám sát ngân hàng (gồm NHNN và BHTG Việt Nam) vừa thực hiện chức năng cấp phép, ban hành cơ chế - chính sách, vừa thực hiện chức năng hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế chính sách và kiêm luôn vai trò kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các định chế tài chính dẫn tới xung đột về lợi ích, khiến hiệu quả và hiệu lực giám sát không cao.

(iv) Việc thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro, giám sát an toàn vĩ mô vẫn còn kém; chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ, chưa coi trọng giám sát dựa trên rủi ro. Vẫn chưa có quy định chung về cách thức giám sát cho cả hệ thống tài chính; việc giám sát vẫn chưa bao quát được tất cả lĩnh vực hoạt động của tập toàn kinh tế, nhất là tập đoàn tài chính trong nước, các tập đoàn xuyên quốc gia… bởi việc gia tăng ngày càng lớn các hoạt động đổi mới tài chính và công nghệ thông tin - truyền thông, tự do hóa kinh tế - tài chính. Điều này đòi hỏi các cơ quan giám sát phải có tầm nhìn toàn cầu và sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý một cách hiệu quả.

(v) Vẫn chưa áp dụng các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô và giám sát an toàn vi mô, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro. Các mô hình phân tích định lượng, dự báo, kiểm định (như Mô hình Cảnh báo sớm khủng hoảng (Early Warning System - EWS), Kiểm định khả năng chịu đựng các cú sốc tài chính

- tiền tệ (Stress Test - ST). Giá trị có thể tổn thất VaR cho cả hệ thống tài chính và cho từng định chế tài chính/ danh mục đầu tư hầu như chưa được áp dụng. Các quy chuẩn về phân loại tập đoàn tài chính, tiêu chí định lượng về an toàn hoạt động đến nay vẫn còn thiếu khuyết, chưa được quan tâm đúng mức.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023