PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI XỨ LẠNG VỚI SỰ HÌNH THÀNH, TỒN TẠI VÀ LƯU TRUYỀN TRUYỆN KỂ DÂN GIAN TÀY - NÙNG
Trong phạm vi cho phép của đề tài, chúng tôi không có tham vọng đi sâu vào mọi vấn đề thuộc điều kiện, tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội của xứ Lạng mà chỉ đi vào tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự hình thành và lưu truyền truyện kể Tày- Nùng xứ Lạng. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu chúng tôi tập trung vào hai phương diện cụ thể: Vùng đất, con người và văn hoá văn học dân gian xứ Lạng. Đặc biệt chúng tôi đi sâu vào các khía cạnh về điều kiện tự nhiên, lịch sử tộc người Tày, Nùng và văn hoá văn học dân gian của người Tày- Nùng xứ Lạng- đây chính là những yếu tố có tác động sâu sắc đến đối tượng nghiên cứu.
1.1. Vùng đất, con người xứ Lạng
Qúa trình nảy sinh, tồn tại và phát triển của văn học dân gian nói chung và truyện kể dân gian nói riêng bao giờ cũng gắn liền với điều kiện lịch sử, văn hoá, xã hội và tâm lý của con người. Do vậy, trước khi khảo sát các thể loại truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng, cần phải có những tìm hiểu về vùng đất, con người xứ Lạng.
1.1.1. Khái niệm xứ Lạng
“... Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em Tay cầm bầu rượu nắm nem
Có thể bạn quan tâm!
- Khảo sát truyện kể dân gian Tày - Nùng xứ Lạng - 1
- Khảo sát truyện kể dân gian Tày - Nùng xứ Lạng - 2
- Về Điều Kiện Xã Hội Và Lịch Sử Tộc Người Tày- Nùng Xứ Lạng
- Văn Hóa, Văn Học Dân Gian Dân Tộc Tày –Nùng Xứ Lạng
- Một Số Thể Loại Truyện Kể Dân Gian Tày- Nùng Xứ Lạng
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Mảng vui quên hết lời em dặn dò...”
Câu ca ấy có từ rất xa xưa vọng mãi cho đến muôn đời nay như đã đã đi vào tiềm thức con người xứ Lạng nói riêng và con người Việt Nam yêu quê hương, đất nước nói chung, nó như một lời mời tha thiết của người xứ Lạng
đối với khách muôn phương hãy đến với xứ Lạng và cũng như một cách giới thiệu về xứ Lạng rất thơ, rất đậm sắc thái dân gian.
Vậy tại sao lại gọi là xứ Lạng và xứ Lạng có từ bao giờ ?
Sách Cơ sở văn hoá Việt Nam giải thích: tên “xứ” là một khái từ được sử dụng khá linh hoạt trong dân gian. Có khi nó được dùng để chỉ một không gian hẹp như xứ đồng, hay một xóm nào đó. Có khi từ này lại được dùng chỉ một không gian rộng hơn: xứ Đông, xứ Đoài, xứ Nam, xứ Bắc, tức là bốn xứ xung quanh kinh thành Thăng Long thời nhà Trần, nhà Lê; hoặc dùng chỉ các xứ như xứ Lạng, xứ Nghệ... Các từ này, khi thì tương đương với một trấn như các phân chia địa giới phong kiến, nhưng có khi lại không, mà tương đương với một tỉnh... Dù thế nào, “xứ” vẫn là từ dùng để biểu đạt sự khác biệt giữa các vùng đất, chứng tỏ sự phân biệt trong tâm thức dân gian. Điều đáng quan tâm là, khi phân biệt các xứ, người dân từ trong lịch sử đã có ý thức phân biệt sự khác nhau về văn hoá.
Theo các tác giả Nguyễn Cường, Đoàn Mạnh Phương, Hoàng Văn Nghiệm, Đặng Đình Trấn, Trần Anh Tuấn trong cuốn Lạng Sơn nơi địa đầu tổ quốc khi nghiên cứu về văn hóa xứ Lạng cho rằng “Xứ Lạng được coi là một tiểu vùng văn hóa riêng biệt nằm trong vùng văn hóa Việt Bắc- Đông Bắc. Ngay từ xứ Lạng(trước chỉ tỉnh Lạng Sơn) cũng đã hàm nghĩa đây là một vùng văn hóa dân gian (FOLKLORE) và xứ là một từ chỉ một vùng có thể rộng mà có thể hẹp, rất hẹp và thường do dân gian gọi mà thành và xứ cũng thường ứng với một đơn vị hành chính nhất định mà thường gọi là một tỉnh. Từ xứ ngày nay chỉ để gọi trong dân gian trong văn hóa văn nghệ, nó không được coi là một đơn vị hành chính quốc gia. Từ xứ gọi là một vùng xứ để gây một ấn tượng cảnh quan nào đó của một vùng có cái gì đó nổi bật và riêng biệt. Ngày nay vẫn có các vùng quê hương được gọi là xứ, trong đó có xứ Lạng, nhưng không nhiều chẳng hạn như xứ Huế, xứ Nghệ, xứ Lạng, xứ Thanh, xứ Quảng” .[ 5, 33-34 ]
Còn trong cuốn Ai lên xứ Lạng của nhóm tác giả Hà Văn Thư, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân, Vương Toàn thì “Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn hoá, nhà thơ đặt câu hỏi vì sao gọi là xứ Lạng? Xứ Lạng có nghĩa là gì ? Cái tên gọi xưa nay nó quen thuộc, nó gần gũi thân thương đến mức như tên gọi của chính ta, như cơm ăn nước uống và không khí thở hàng ngày. Nhưng hồ dễ mấy ai đã giải thích được một cách thấu đáo dù là người sống rất lâu ở xứ Lạng chăng nữa! Để lý giải được hai từ đó và một số vấn đề khác nữa, năm 1985, Sở văn hoá thông tin tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức một cuộc hội thảo khoa học về xứ Lạng- Lạng Sơn. Nhiều nhà nghiên cứu đã thử lý giải nó nhằm làm sáng tỏ nhiều vấn đề còn chưa xác định, đất nước ta có bao nhiêu vùng gọi là xứ ? xứ Quảng, xứ Huế, xứ Nghệ, xứ Thanh và xứ Lạng...
Tổng hợp các nghiên cứu thì xứ Lạng theo các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thiết từ Lạng là một từ Hán- Việt cổ kết hợp với từ Lũng trong ngôn ngữ Tày, Nùng dưới dạng ngữ âm Hán- Việt cổ, theo ngữ nghĩa cổ để chỉ địa danh các điểm cư trú Tày, Nùng. Xứ Lạng là xứ sở gồm có nhiều lũng. Và như vậy, Lạng có nghĩa là “Núi cao đẹp” như hình dáng núi Lạng đã được miêu tả. Xứ Lạng là xứ sở của những lũng, là xứ sở núi non hùng tráng lâu đời, mang nặng mối tình gắn bó Việt- Tày- Nùng lịch sử, thấm sâu ngay trong bản thân địa danh” [48, 7-8].
Như vậy, xứ Lạng được định nghĩa theo cách nào đi chăng nữa thì đến với xứ Lạng ngay trong bản thân địa danh đã gợi cho ta biết bao điều phải khám phá về một vùng đất giàu bản sắc văn hoá. Một vùng đất là không gian sinh tồn cho những truyện kể dân gian mang hương sắc hoa hồi, chất men say của rượu nồng và tình người đằm thắm nơi xứ Lạng
1.1.2. Về điều kiện tự nhiên
Trong dải đất nước hình chữ S Việt Nam duyên dáng, mềm mại thì xứ Lạng chính là dải đất địa đầu của Tổ Quốc. Xứ Lạng là một điểm nút giao
thông, kinh tế quan trọng, phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn. Phía Đông Bắc giáp khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây Trung Quốc. Xét về địa lý hành chính thì xứ Lạng là mảnh đất biên cương có đường biên giới dài với Trung Quốc, là điểm xuất phát của trục đường giao thông Bắc- Nam- Quốc lộ 1A, là điểm gặp gỡ của các quốc lộ 1A, 1B, 4B chạy dọc theo biên giới Việt- Trung. Chính vì thế xứ Lạng được coi là vùng đất “ phên giậu”, là “cửa ngõ chính” trong những cuộc đối thoại và đối đầu với Trung Quốc qua nhiều thời kỳ lịch sử. Đồng thời thì đó cũng là điều kiện cho “ sự giao lưu văn hoá hằng xuyên Nam- Bắc” của xứ Lạng. Với vị trí địa lý thuận lợi như vậy tự bản thân xứ Lạng đã tạo cho mình những tiềm năng thương mại du lịch và giao lưu kinh tế quốc tế và văn hóa làm nên bộ mặt đa sắc trong vườn hoa văn hóa nghìn sắc của đất nước Việt Nam.
Xứ Lạng là nơi có địa hình riêng biệt. Là miền núi, nhưng xứ Lạng có dòng sông Kỳ Cùng thơ mộng bắt nguồn từ Đình Lập qua Lộc Bình, Cao Lộc, qua thành phố Lạng Sơn, xuôi về Văn Quan, Văn Lãng, Tràng Định và lại đổ về Trung Quốc. Và đây là một trong hai con sông ở nước ta chảy hướng Bắc, đổ vào sông Long Châu bên Trung Quốc rồi đổ ra Trung Biển Đông, tạo thành một thung lũng dài với những cánh đồng lòng chảo nổi tiếng trong xứ như cánh đồng Thất Khê, cánh đồng Lộc Bình, cánh đồng Na Sầm màu mỡ, phù sa. Ở về phía Tây, xứ Lạng có dãy núi đá vôi hùng vĩ- dãy Kai Kinh nằm trong cánh cung Bắc Sơn, Ngân Sơn rộng lớn, hùng tráng và lại tạo thành một lòng máng khác hướng nước chảy về Đông Bắc Bộ, chính dãy núi này cũng là một yếu tố tác động đến lối sống, tập quán canh tác, phong tục... của đồng bào xứ Lạng.
Cùng với cánh đồng khác trong xứ như cánh đồng Bình Gia, cánh đồng Ba Xã, Yên Bình Phúc, Chi Lăng...Xứ Lạng không chỉ có núi đất, thung lũng
mà cùng với đó là dãy núi đá vôi Bắc Sơn sừng sững và kiêu hãnh với tư cách là “người bảo vệ” nền văn hóa khảo cổ học nổi tiếng trong nước và thế giới- văn hóa Bắc Sơn với những dấu tích đặc trưng là những chiếc rìu đá mài và dấu Bắc Sơn trên đá. Những dấu tích đó cho thấy từ rất xa xưa xứ Lạng đã có cho mình một nền văn hóa riêng.
Cũng như cả nước, Lạng Sơn là vùng đất nằm trong khu vực Đông Nam Á, vùng “ Châu Á gió mùa” nơi cây cỏ và sinh vật phong phú với những cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, núi non trùng điệp, gần thì xanh thẫm, xa thì mờ ảo như tranh thủy mặc. Đi qua những thung lũng, những đèo, bên thì núi dựng đứng, bên thì suối róc rách, trên cao chim hót líu lo. Vào bất cứ ngả đường nào của xứ Lạng cũng vậy, cảnh sắc thiên nhiên tươi xanh bốn mùa, với hoa rừng nở rực rỡ ven đường, quanh làng bản và những cánh rừng hồi bạt ngàn xanh với hương hồi thơm ngào ngạt làm say lòng người. Cùng với đó là những dải núi đá vôi chạy dài từ đông sang tây đầy những hang động, mái đá thuận tiện cho con người cổ xưa chọn làm nơi cư trú, những cánh rừng bao la với nhiều loại thực phẩm ngon ngọt có thể nuôi sống các loài động vật cũng như làm môi trường rộng rãi cho con người nối tiếp nhau săn bắn, hái lượm. Một vùng đất có đồi núi, có rừng rậm với nhiều loại thảo mộc, thú rừng thực sự là một không gian lý tưởng cho cuộc sống của con người thời cổ. Vẻ đẹp hòa quyện của núi và mây hùng vĩ, của hang và động với cảnh trí tuyệt vời kỳ ảo, những địa danh ẩn trong đó là trầm tích của những huyền thoại thơ mộng. Thiên nhiên đầy thơ mộng, kỳ thú cũng là không gian xuyên suốt trong những câu chuyện kể, những giai thoại đẫm chất thơ của vùng rừng núi xứ Lạng. Có lẽ vì địa hình như vậy mà trong hầu hết các truyện cổ xứ Lạng không gian chủ yếu là cảnh núi non hùng tráng với núi đá và rừng xanh. Ẩn chứa trong các cảnh quan thiên nhiên là những sự tích riêng, những hồn riêng. Đồng bào xứ
Lạng sống hoà đồng với thiên nhiên, đất trời. Đó chính là điều kiện để ươm mầm văn hoá xứ Lạng trong quá khứ, trong hiện tại và chắc chắn cả trong tương lai nữa.
1.1.3. Về điều kiện xã hội và lịch sử tộc người Tày- Nùng xứ Lạng
1.1.3.1. Về điều kiện xã hội và lịch sử các tộc người xứ Lạng
Xứ Lạng là nơi có các dân tộc ít người chiếm số đông (84,74% tổng số dân của tỉnh), là nơi chung sống của nhiều dân tộc anh em trong đó dân tộc Nùng chiếm 43,86 %, dân tộc Tày chiếm 35,9 %, dân tộc Kinh 15,26%, dân tộc Dao 3,54%, dân tộc Hoa, dân tộc Sán chay và dân tộc H’Mông (Ngoài ra còn có một số dân tộc khác như Thái, Mường, Êđê, Sán Dìu. Với sự tụ cư của nhiều các dân tộc anh em như vậy đã giúp cho xứ Lạng gần như có đầy đủ các sắc thái văn hóa và cũng như một bức tranh thu nhỏ (tuy chưa thật đầy đủ) của vùng văn hóa Đông –Bắc. Trong số các dân tộc ở xứ Lạng thì tộc người Tày, Nùng là hai tộc người xuất hiện sớm nhất được coi là hai dân tộc bản địa ở xứ Lạng và cũng là hai dân tộc có số dân đông nhất, có nhiều ảnh hưởng đến các dân tộc khác cùng tụ cư ở xứ Lạng nói riêng và ở vùng Đông- Bắc nói chung. Điều kiện xã hội và lịch sử hai tộc người này chúng tôi xin được trình bày ở phần sau.
Trong phần này, chúng tôi tập trung giới thiệu một cách khái quát nhất về cộng đồng các tộc người sống cùng trên mảnh đất xứ Lạng xoay quanh chủ thể Tày, Nùng. Bởi lẽ cùng với chủ thể văn hóa là người Tày, Nùng thì các tộc người này cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng bản sắc văn hóa xứ Lạng để từ đó tạo thành bản sắc văn hóa Việt nói chung. Lịch sử các tộc người cùng chung sống trên mảnh đất xứ Lạng đã được đề cập tới trong nhiều các công trình nghiên cứu như Địa chí Lạng Sơn, Lạng Sơn nơi địa đầu Tổ quốc. Cụ thể ở xứ Lạng có các dân tộc như sau
Dân tộc Kinh là dân tộc có số dân đông nhất Việt Nam. Ở xứ Lạng dân tộc Kinh chiếm 15% dân số toàn tỉnh, là dân tộc đông thứ ba sau dân tộc Nùng,
Tày. Do đặc điểm lịch sử, tộc người Kinh ở Lạng Sơn có hai nguồn: Nguồn cổ và nguồn mới hay còn gọi là người Kinh đến trước và người Kinh đến sau (khai hoang).
Nguồn cổ là những người Kinh bản địa là một trong những cư dân đầu tiên của tỉnh. Nguồn gốc là con cháu nhà Mạc (cuối thế kỷ XVI) và những quan quân nhà Mạc bị thất bại trước lực lượng Lê Trịnh, nên đã chạy lên Lạng Sơn- Cao Bằng vừa lánh nạn vừa củng cố lực lượng. Đi theo họ là rất đông họ hàng thân thích. Xứ Lạng trở thành căn cứ địa của những người Kinh thân Mạc từ dưới xuôi lên. Họ ở thành làng mạc riêng, xây thành đắp lũy kiên cố. Hiện nay còn lại nhiều di tích nhà Mạc ở Lạng Sơn. Nhiều người Kinh đã ở xen kẽ trong những bản làng Tày- Nùng, một phần đã Tày- Nùng hóa, một số khác vẫn giữ nguyên dân tộc. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng giữa người Tày, Nùng và Kinh từ xa xưa đã có mối quan hệ khăng khít với nhau. Dân gian ta đã có câu thành ngữ được truyền tụng từ nhiều đời Kinh già hoá thổ. Câu nói đó có lẽ được bắt nguồn từ thực tế lịch sử Việt Nam thời xa xưa, khi vua Minh Mạng thực hiện chính sách Cải thổ quy lưu (bỏ quan người dân tộc, đưa lưu quan từ kinh đô lên trực tiếp nắm quyền cai trị). Vì vậy có thể nói giữa Tày, Nùng, Việt có sự giao thoa văn hoá khá sâu sắc.
Người Kinh khai hoang, người Kinh mới lên Lạng Sơn, họ di cư đến Lạng Sơn theo chương trình khai hoang phát triển kinh tế miền núi do nhà nước kêu gọi. Đó là những cán bộ, bộ đội lên công tác và chiến đấu rồi lập nghiệp, lập gia đình, ở lại nơi xứ Lạng. Với nhiệt huyết sẵn có, vừa có trình độ văn hóa, có kinh nghiệm sống, am hiểu phong tục tập quán địa phương, các cán bộ người Kinh cùng gia đình của họ sống hòa đồng với các dân tộc, giúp đỡ các dân tộc, họ thường được nể trọng trong cộng đồng làng bản.
Trong đời sống văn hóa, người Kinh rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, coi vua Hùng là vị tối thượng của cả dân tộc. Họ đề cao các anh hùng dân tộc,
danh nhân văn hóa không những của dân tộc mình mà của nhiều dân tộc anh em khác. Hàng năm người Kinh có rất nhiều các lễ hội phong phú với bản sắc vùng, miền rõ rệt. Người Kinh xây dựng được cho mình một kho tàng văn hóa, văn học dân gian rất phong phú, đa dạng và là chủ thể chính trong văn hóa, văn học dân gian Đại Việt. Trong đời sống tín ngưỡng, Phật giáo in dấu ấn đậm nét trong tâm thức người Kinh. Tuy nhiên trong ý thức hệ người Kinh, sâu sắc và thiêng liêng nhất vẫn là tổ tiên và Tổ quốc. Vì thế mà tất cả những gì thuộc về cội nguồn luôn in đậm trong ký ức của mỗi người từ lúc trẻ thơ và theo họ suốt cuộc đời dù phải xa quê hương.
Khi đến với xứ Lạng, họ đã coi xứ Lạng là quê hương của mình. Họ đã pha dòng máu của mình với đồng bào Tày, Nùng và đem theo nền văn hoá miền xuôi lên miền núi và phổ biến nó trong cộng đồng Tày, Nùng nói riêng và các dân tộc khác ở xứ Lạng mà họ cùng sinh sống. Sự hoà hợp giữa những yếu tố dân tộc vốn có và những yếu tố văn hoá Việt ngày càng ăn sâu vào đời sống người Tày, Nùng làm cho nền văn hoá của cộng đồng Tày, Nùng của xứ Lạng có mảng mầu riêng chung đa sắc.
Tộc người Dao đứng thứ chín trong 54 dân tộc anh em. Dân tộc Dao ở trong nhóm ngữ hệ Mèo- Dao. Tên tự gọi là Dìu Mền, Kìn Mền, Kềm Mùn nghĩa là người ở núi, người ở rừng, cách gọi này thường dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Trước đây người Dao còn có tên gọi là Mán, nhưng ngày nay không còn dùng nữa. Người Dao xuất hiện ở Lạng Sơn từ thế kỷ XVI do những cuộc thiên di từ nam Trung Hoa sang. Người Dao cư trú ở Lạng Sơn gồm bốn nhóm ngành Dao chủ yếu, thuộc hai phương ngữ đó là: Dao Lù Đảng còn gọi là Dụ Cùm, Cóc Mần. Dao Lù Giang còn gọi là Thanh Phán. Dao Đỏ còn gọi là Dụ Lạng, Quế Lâm. Dao Thanh Y còn gọi là Pờ ây.
Trước đây người Dao là dân tộc chủ yếu sống du canh du cư trên các triền núi cao. Do vậy làng bản và địa bàn cư trú thường không ổn định và ít