Tổng Quan Về Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Bền Vững (Dlst Bv)



được nhận khi gắn kết với sự đa dạng về sinh cảnh. Đó chính là nguyên nhân giải thích vì sao trên hành tinh chúng ta đang sống có vô vàn các HST khác nhau cùng tồn tại. Nếu không có ĐDSH thì không có DLST vì du khách thưởng thức sự phong phú các loại hình sinh thái (đất, nước, cây...), không ai đi DLST nơi sa mạc, nơi không có sự sống...Điều đó chứng tỏa rằng: mối liên kết không thể tách rời giữa ĐDSH và DLST, muốn phát triển DLST ở một nơi nào đó thì bắt buộc nơi đó phải có sự phong phú về ĐDSH

1.1.5.2. DLST với phát triển cộng đồng.

Cộng đồng bao gồm bốn yếu tố :

- Tương quan cá nhân mật thiết với những người khác.

- Có sự liên hệ với tình cảm.

- Có sự tự nguyện hy sinh đối với những giá trị được tập thể coi là cao cả.

- Có ý thức đoàn kết với mọi thành viên trong tập thể.

Cộng đồng thường được xem nhu là một cơ cấu xã hội, là một đoàn thể con người có những giá trị chuẩn mực, đất mẹ (ranh giới lãnh thổ được xác định trong quá trình phát triển lịch sử), là cơ sở đề xác định cộng đồng này với cộng đồng khác. Ranh giới hành chính cũng có thể được xem là một cơ sở để phân biệt ranh giới cộng đồng, nhưng trong thực tế thì cơ sở để phân biệt này không cao do những biến động về tổ chức hành chính.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.

Đoàn kết là một đặc tính hàng đầu của mỗi cộng đồng. Ý thức cộng đồng hay còn được gọi là tâm thức cộng đồng được quan niệm như là một ý thức và tình cảm chung do quá trình cùng sinh sống trong một đơn vị lãnh thổ, có những mối liên về mặt huyết thống hay quan hệ láng giềng... Một cộng đồng tồn tại được là do các thành viên của nó luôn tìm được tiếng nói chung và thống nhất trong mọi hành động.

Cộng đồng khi được coi là một tiến trình xã hội, là một hình thức tương quan giữa người với người có tính kết hợp, theo đó họ được gần nhau và phối hợp chặc chẽ với nhau hơn. Các cộng đồng nông thôn ít xảy ra các tiến trình theo chiều hướng ly tâm. Tính cố kết chặt, sự di động xã hội ít, sự đa dạng về nghề nghiệp không lớn, cộng thêm các yếu tố tôn giáo tín ngưỡng cộng đồng, làm cho các hoạt

Khai thác tiềm năng phát triển du lịch sinh thái Sóc Trăng theo hướng bền vững - 4



động của cộng đồng nông thôn thường có tính thống nhất cao hơn so với các cộng đồng đô thị. Văn hoá là yếu tố biểu thị tổng hợp để nhận biết cộng đồng, hay nói cách khác, nó là thuộc tính riêng được hình thành trong quá trình phát triển của mỗi cộng đồng. Yếu tố văn hoá ở đây được xem xét trên ba khía cạnh cơ bản là: tộc người, tôn giáo – tín ngưỡng và hệ thống giá trị chuẩn mực. Phát triển cộng đồng là một quá trình trong đó có sự tăng trưởng về kinh tế cộng đồng cùng với những tiến bộ của cộng đồng theo hướng hoàn thiện về các giá trị chân – thiện – mỹ.

Trong những năm trở lại đây, du lịch ở nhưng nước phát triển trong đó có Việt Nam ngành du lịch là ngành đem lại hiệu quả kinh tế cao và đang được đầu tư phát triển, đồng thời nó, cũng đưa đến những hiệu quả tiêu cực cho môi trường sinh thái và các cộng đồng cư dân bản địa.

DLST phải dựa trên một hệ thống các quan điểm về tính chất bền vững và sự tham gia của các hoạt động của cộng đồng địa phương của dân cư nông thôn và ở những nơi có tiềm năng lớn về DLST. DLST gắn kết giữa người dân địa phương với du khách để duy trì những khu hoang dã về những thế mạnh về sinh thái và văn hoá vốn có.

Như vậy, DLST là một ngành kinh tế có nhiều tác động đến môi trường hơn bất cú một ngành kinh tế nào khác, bởi vì, tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho du lịch chủ yếu được khai thác từ môi trường nên hậu quả của nó không thể lường hết được. Vấn đề đặt ra cho các nhà Quản lý kinh doanh du lịch là làm thế nào để khai thác tốt các hoạt động du lịch mà vẫn không quên chức năng bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên nhằm mục đích phát triển DLBV.

1.1.5.3. DLST với PTBV.

Phát triển là một trong những quy luật tất yếu của nhân loại, của mọi thời đại, mọi quốc gia. Cùng với sự gia tăng dân số thì các nhu cầu về đời sống và văn hoá lấy từ môi trường, từ các HST ngày càng gia tăng. Để đáp ứng nhu cầu đó, đòi hỏi phải có sự phát triển kinh tế mà hậu quả của nó không thể tránh được là tài nguyên thiện nhiên đã bị khai thác để phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế này, các HST bị phá hủy và chất lượng môi trường xuống cấp.



Du lịch là một ngành kinh tế mà hoạt động của nó cũng có những tác động làm suy giảm tài nguyên và môi trường một cách đáng kể. Khái niệm DLBV hiện vẫn đang được nghiên cứu, phát triển đề tìm ra những nguyên nhân là suy giảm tính hấp dẫn của du lịch, bởi sự xuống cấp của tài nguyên môi trường nhằm đem lại lợi ích kinh tế không chỉ cho ngành du lịch và còn của cả cộng đồng địa phương. Trên thực tế, một số trường hợp đã tồn tại sự cân bằng giữa bảo tồn và việc sử dụng tài nguyên thiện nhiên, cho nên việc sự dụng tài nguyên thiên nhiên trong cộng động không hề dựa vào yếu tố PTBV về tài nguyên thiên nhiên, nên sự cân bằng vẫn được đảm bảo.

Để đạt yêu cầu trong phát triển DLST bền vững đòi hỏi phải có sự tương tác giữa khu vực tư và cộng đồng để hướng tới một xã hội ổn định. Những quy định về phát triển DLBV cũng đòi hỏi các cộng đồng làm việc trong một cơ cấu rộng thoáng.

1.2. Tổng quan về phát triển Du lịch sinh thái bền vững (DLST BV)

1.2.1. Khái quát về DLST BV

Khái niệm PTBV (Sustainable Development) ra đời rất muộn màng, lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo “tương lai của chúng ta” của Ủy ban Môi trường và phát triển của Ngân hàng Thế giới (World Bank) vào năm 1987.

DLST BV là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi đó vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên và phát triển du lịch trong tương lai. DLBV đưa ra các kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội và thẩm mỹ của con người, mặt khác vẫn duy trì sự toàn vẹn về mặt xã hội, sự đa dạng về sinh học, sự phát triển của các HST và các hệ thống hỗ trợ cho con người.

Phát triển DLST BV thường dẫn ra như một thành phần then chốt của các chương trình PTBV. Martha Honey, tóm tắt quan điểm này như sau: Khắp thế giới, DLST được ca ngợi như một phương thuốc bách bệnh; đó là một phương cách để cung cấp tiền cho việc bảo tồn và nghiên cứu khoa học, bảo vệ các hệ thống sinh thái hoang sơ và dễ bị hư hại, đem lại lợi ích cho các cộng đồng nông thôn, thúc đẩy


phát triển ở các nước nghèo, nâng cao sự nhảy cảm về văn hóa và sinh thái, làm cho du lịch biết phân biệt và ý thức xã hội, làm hài lòng và giáo dục khách du lịch biết phân biệt và một số người còn khẳng định xây đắp hòa bình thế giới.[4]

Phát triển DLST BV không những đóng góp tích cực cho sự PTBV mà còn làm giảm tối thiểu các tác động của khách du lịch đến văn hóa và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài nguyên do du lịch mang lại và cần chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn tự nhiên. Phát triển DLST BV cần có sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường trong khuôn khổ các nguyên tắc và các giá trị đạo đức (Allen K.1993)

Một khi chúng ta đã áp đụng những nguyên tắc cơ bản trong phát triển DLST BV thì tài nguyên sẽ không bị khai thác cạn kiệt, đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng được nâng cao, những giá trị văn hóa được tôn tạo, giữ gìn và phát huy.

1.2.2. Các bộ phận hợp thành DLST BV

Theo International Ecotourism Society (Tổ chức DLST quốc tế) năm 2004. DL BV có ba hợp phần chính, đôi khi được ví như “ba chân” bao gồm:

1.2.2.1. Thân thiện với môi trường

Du lịch có tác động thấp đến nguồn lợi tự nhiên và khu bảo tồn nói riêng. Nó giảm thiểu các tác động đến môi trường (các HST, sử dụng năng lượng và ô nhiễm...) và cố gắng có lợi cho môi trường.

1.2.2.2. Gần gũi về xã hội và văn hóa

Du lịch đạt đến bền vững là không gây hại đến các cấu trúc xã hội hoặc văn hóa của cộng đồng nơi mà chúng thực hiện. Thay vào đó thì nó lại tôn trọng văn hóa và truyền thống địa phương. Khuyến khích các bên liên quan (cá nhân, cộng đồng, nhà điều hành tour, và quản lý chính quyền) trong tất cả các giai đoạn của việc lập kế hoạch, phát triển và giám sát, giáo dục các bên liên quan về vai trò của họ.

1.2.2.3. Nhân tố Kinh tế

Du lịch đóng góp về mặt kinh tế không nhỏ cho cộng đồng và tạo ra những thu nhập công bằng và ôn định cho cộng đồng địa phương cũng như càng nhiều bên liên quan khác càng tốt. Nó mang lại lợi ích cho người chủ, cho nhân viên và cả



người xung quanh. Nó không bắt đầu một cách đơn giản để sau đó sụp đỗ nhanh do các hoạt động kinh doanh nghèo nàn.

1.2.3. Các nguyên tắc trong DLST BV

1.2.3.1. Cơ sở của nguyên tắc DLST

Với mục tiêu đáp ứng nhu cầu của du khách, giảm thiểu các tác động lên môi trường sinh thái và đem lại phúc lợi cho cộng đồng địa phương.

DLST phải lấy một số cơ sở sau để phát triển:

- Tìm hiểu và bảo vệ các giá trị thiên nhiên, văn hóa

- Giáo dục môi trường.

- Phải có tổ chức về nghiệp vụ du lịch, hạn chế tới mức thấp nhất đối với môi trường.

- Phải hổ trợ cho bảo vệ môi trường.


HST

Tài nguyên

Môi trườngSinh thái học

Cảnh quan Con người

DLST

Du lịch học

Nhà hàng Khách sạn Tổ chức Hướng dẫn Hội nghị

Hình 1.1: DLST được tạo thành bởi sự thống nhất và bổ sung của Du lịch học

và Sinh thái học. (Lê Huy Bá, 2006)


Sinh thái

Môi trường học

Du lịch sinh thái

Khoa học

Du lịch

Văn hóa, kinh tế

Xã hội

Hình 1.2. DLST là kết tinh của khoa học, du lịch, văn hóa, kinh tế, xã hội và HST môi trường học. (Lê Huy Bá, 2006)


DU LỊCH SINH THÁI

Du lịch văn hóa,

lịch sử

Các loại hình du lịch

khác

(du lịch, giải trí…)

Hình 1.3. Tương quan giữa DLST, du lịch văn hóa, du lịch lịch sử và các loại hình du lịch khác (Lê Huy Bá, 2006)



Các mục tiêu văn hóa xã hội


Bảo vệ với bình đẳng


Vừa phát triển kinh tế vừa phát triển văn hóa xã hội


PTBV như là khối cộng đồng của các giá trị kinh tế - văn hóa

– môi trường


Mục tiêu kinh tế


Liên kết kinh tế - môi trường


Các mục tiêu môi trường


Hình 1.4: Sơ đồ Wenn minh họa cho sự Phát triển bền vững (Lê Huy Bá, 2006)

1.2.3.2. Nguyên tắc DLST BV

Để đưa ra nguyên tắc cho DLST BV cần nghiên cứu một số nội dung cơ bản trong chỉ tiêu phát triển bền vững, vì khi nghiên cứu được chỉ tiêu phát triển thì chúng ta mới có thể đưa ra các nguyên tắc cơ bản cho phát triển DLST BV.

- Chỉ tiêu đo lường chất lượng cuộc sống: Đó là chỉ tiêu phát triển con người hay còn gọi là HDI (Human Development Indexes), chỉ tiêu này bao gồm:



Thu nhập quốc dân tính theo đầu người, biểu thị bằng chỉ só GDP.

Tuổi thọ bình quân nam giới và nữ giới.

Học vấn biểu thị bằng tỉ lệ mù chữ, tỉ lệ người có trình độ trung học, đại học và trên đại học.

Tự do trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.

Chất lượng môi trường, mức độ ô nhiễm nặng, vừa và không ô nhiễm.

- Chỉ tiêu về tính bền vững sinh thái: Một xã hội được coi là bền vững sinh thái khi:

Nó bảo tồn HST phụ trợ cuộc sống và ĐDSH.

Bảo đảm rằng việc sử dụng tài nguyên tái tạo được là bền vững và giảm thiểu việc làm suy thoái tài nguyên không tái tạo được.

Nằm trong khả năng chịu tải của HST phụ trợ [2]

Phát triển DLST bền vững cần bảo đảm kết hợp hài hoà lợi ích của 4 bộ phận quan trọng tham gia: Khách du lịch sinh thái; Các nhà tổ chức điều hành du lịch sinh thái; Các nhà quản lý khu bảo tồn; Dân cư địa phương. Để có sự kết hợp hài hòa lợi ích của các thành phần tham gia đến mức bền vững trong DLST cần đảm bảo các nguyên tắc sau:

Nâng cao hiểu biết cho du khách về môi trường tự nhiên; du khách có các hoạt động góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường, bản sắc văn hoá.

Khách DLST chấp nhận điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh tự nhiên với những hạn chế của nó.

Tạo thêm việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.

Lượng du khách luôn kiểm soát điều hoà.

Phải đảm bảo lợi ích lâu dài, hài hòa cho tất cả các bên liên quan.

Người hướng dẫn viên và các thành viên tham gia DLST phải có nhận thức cao về môi trường sinh thái, am hiểu về điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội ...

Cần có sự đào tạo đối với tất cả các thành viên, đối tác tham gia vào DLST



Giữ lại một phần lợi nhuận từ du lịch cho cộng đồng địa phương để hỗ trợ cho địa phương phát triển các dịch vụ hữu ích.

DLST được khai thác từ nhiều khía cạnh khác nhau, từ tự nhiên đến văn hóa xã hội. Trên cơ sở các nguyên tắc đã đề ra cần thực hiện nghiên túc để có thể đạt đến bền vững. Sự bền vững đó cần có sự phối hợp giữa các bên có liên quan nhằm xây dựng môi trường DLST BV.

1.2.4. Các biện pháp tự điều chỉnh nhằm đạt đến sự bền vững.[8]

Nhiều hãng du lịch đã nhận thức được là chính sách môi trường thực sự quan trọng, mang lại lợi ích kinh tế rất lớn cho quốc gia. Một số tổ chức lữ hành, du lịch và nghỉ dưỡng đã tự nguyện thực thi các quy định về môi trường. Các quy định này nhằm biện pháp để đạt đến sự phát triển DLST BV.

1.2.4.1. Tiếp thị và nhãn sinh thái

Chiến lược tiếp thị cho DLBV cung cấp đầy đủ và chân thực các thông tin về SPDL, xác định, đánh giá và xem xét toàn diện về cung ứng các tài nguyên thiên nhiên và văn hóa. Mục tiêu chính của quá trình tiếp thị là làm cho du khách nhận thức rõ những tác động có thể gây ra cho môi trường tự nhiên và văn hóa xã hội, huấn luyện du khách trước khi họ lên đường, làm cho hoạt động du lịch phù hợp với khả năng du lịch về mặt quy mô, số lượng và loại hình du lịch.

Nhãn sinh thái của SPDL nhằm tăng cường chiến lược tiếp thị định hướng vào bảo vệ chất lượng môi trường. Nguyên tắc của nhãn sinh thái dựa trên việc xác định các tiêu chuẩn môi trường có thể ứng dụng cho sản phẩm và dịch vụ du lịch.

1.2.4.2. Xây dựng chính sách tiêu thụ môi trường có ý nghĩa

Chính sách tiêu thụ xanh vừa mang lại lơi ích cho kinh doanh du lịch, vừa cho nền kinh tế địa phương. Nguyên tắc cơ bản của chính sách này là:

- Tránh các sản phẩm sản xuất từ các nguyên liệu gây nguy hại cho môi trường (xịt tóc có CFCs, thú nhồi bông, vật lưu niệm từ san hô...)

- Chỉ mua những thứ thực sự cần và nên ở dạng hàng rời.

- Tránh các hàng hóa nhiều bao bì.

- Mua các sản phẩm tái chế hoặc có thể tái chế.

- Mua các sản phẩm có chất lượng tốt, dùng bền và có thể sửa chữa.

Xem tất cả 155 trang.

Ngày đăng: 24/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí