hoạt động tài chính của Học viện, từ đó có sự hướng dẫn cụ thể đối với đơn vị nhằm thực hiện đúng chế độ.
Ngoài việc tôn trọng các chính sách chế độ tài chính kế toán mà các văn bản pháp luật của Nhà nước đã ban hành, trong quá trình hoàn thiện công tác kế toán của các đơn vị sự nghiệp nói chung và Học viện nói riêng cũng cần phải quan tâm đến các Chuẩn mực kế toán quốc tế và tính đến sự phát triển và những thay đổi của các chính sách tài chính kế toán trong tương lai.
3.4. Điều kiện thực hiện giải pháp
3.4.1. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước Về phía Nhà nước
Sau gần 14 năm thực hiện, Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị SNCL đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần được sửa đổi: các đơn vị sự nghiệp chưa được giao quyền tự chủ một cách đầy đủ, chưa thực sự khuyến khích các đơn vị có điều kiện vươn lên tự chủ ở mức cao hơn. Do đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ, theo đó đặc điểm hoạt động tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu có sự thay đổi căn bản: từ chỗ là đơn vị thực hiện dự toán ngân sách sang chủ động tìm kiếm nguồn thu và bù đắp các khoản chi. Do vậy hệ thống kế toán hiện hành cần có sự thay đổi tương ứng. Nhà nước cần bổ sung thông tư hướng dẫn cho Nghị định này. Việc ban hành Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị SNCL đã kịp thời đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của hoạt động sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với một số điểm mới, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc phân loại đơn vị SNCL được dựa trên mức độ tự chủ về tài chính của các đơn vị cả về chi thường xuyên và chi đầu tư. Theo đó, căn cứ vào mức độ tự đảm bảo kinh phí chi đầu tư và chi thường xuyên, đơn vị
sự nghiệp công lập được phân chia thành 4 loại: (i) đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, (ii) đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên, (iii) đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, (iv) đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Thứ hai, việc tự chủ của các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy nhân sự và tài chính được quy định tương ứng với từng loại hình đơn vị SNCL, trên nguyên tắc các đơn vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động càng nhiều thì mức độ tự chủ càng cao để khuyến khích các đơn vị tăng thu, giảm dần bao cấp từ NSNN, trong đó có bao cấp tiền lương tăng thêm để dần chuyển sang các loại hình đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên, đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Kế Toán Thu, Chi Và Kết Quả Hoạt Động Khác
- Định Hướng Phát Triển Của Học Viện Y - Dược Học Cổ Truyền Việt Nam
- Hoàn Thiện Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Tại Học Viện Y - Dược Học Cổ Truyền Việt Nam
- Sơ Đồ Kế Toán Thu Chi Và Xác Định Kết Quả Các Hoạt Động Hành Chính Sự Nghiệp
- Danh Mục Định Mức Nguồn Thu
- Kế toán thu, chi và kết quả các hoạt động tại Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.
Thứ ba, giá dịch vụ sự nghiệp công được quy định tại Mục 2, Chương II của Nghị định, bao gồm các quy định về giá, phí dịch vụ sự nghiệp công, cách xác định giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh phí NSNN và giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN. Đồng thời, quy định cụ thể lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công đối với dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN. Quy định này nhằm tạo điều kiện để từng bước tính đủ giá dịch vụ sự nghiệp công vào chi phí.
Thứ tư, về quy định chuyển tiếp, nghị định quy định trong khi chưa ban hành hoặc sửa đổi nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công trong từng lĩnh vực, các đơn vị sự nghiệp công theo từng lĩnh vực được tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ theo quy định tại các nghị định hiện hành về tự chủ trong các lĩnh vực.
Do vậy Nhà nước cần xem xét điều chỉnh những quy định trong chế độ kế toán HCSN cho phù hợp với xu hướng phát triển của các trường đại học công lập nói riêng và các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về cơ chế quản lý tài chính, chế độ kế toán áp dụng cho các đơn vị SNCL được giao quyền tự chủ
đảm bảo tính hợp lý, khả thi và thống nhất, tiến tới ban hành chuẩn mực kế toán công ở Việt Nam, góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh và hỗ trợ cho việc quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước về hoạt động kế toán, phù hợp với điều kiện của đất nước và hội nhập với khu vực và thế giới.
Để đảm bảo hoàn thiện môi trường pháp lý về kế toán áp dụng cho các đơn vị SNCL nói chung và các trường đại học công lập nói riêng phù hợp với điều kiện hiện nay thì ngoài các văn bản về kế toán có tính pháp lý cao nhất như Luật kế toán Việt Nam, các văn bản dưới luật còn hiệu lực, cần tiếp tục đổi mới hệ thống kế toán HCSN hiện hành theo hướng cơ bản sau đây:
Trong điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, Nhà nước cần hoàn thiện và đổi mới hệ thống định mức tiêu chuẩn; xây dựng được các định mức chi phí hợp lý, phù hợp với điều kiện phát triển đất nước cũng như phù hợp với điều kiện phát triển của ngành Y tế. Bởi hệ thống các tiêu chuẩn, chế độ, định mức, là những chuẩn mực đặc biệt quan trọng để đo lường tiết kiệm hiệu quả của các hoạt động. Nó là điều kiện để đảm bảo quản lý chi tiêu được tốt hơn, làm cơ sở cho quá trình lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Mặt khác, Nhà nước phải có chính sách tiền lương hợp lý, thể hiện được chính sách ưu tiên cho cán bộ, công chức nhằm khuyến khích họ nghiên cứu phát huy tài năng, nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
- Tăng cường nguồn đầu tư, phân cấp nhiều hơn nữa về quản lý cho các trường đại học, nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị. Tăng cường đầu tư vốn xây dựng cơ sở vật chất và phương tiện máy móc thiết bị phục vụ công tác giảng dạy...
Về phía Bộ Y tế
Bộ Y tế cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện tự chủ tài chính trong Học viện. Bên cạnh đó cần nghiên cứu đề nghị Chính phủ điều chỉnh các quy định hiện hành về tuyển sinh, chương trình đào tạo, mức thu học phí, chính sách phân phối thu nhập để tăng quyền tự chủ toàn diện cho các trường đại học, chứ không phải thuần túy là cắt ngân sách chi thường xuyên của các
trường. Điều này sẽ là cơ sở cho việc điều chỉnh, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính và hệ thống kế toán trong Học viện.
Bộ Y tế cần chú trọng hơn nữa tới công tác kiểm tra, kiểm toán công tác kế toán của các đơn vị SNCL, thành lập các đoàn thanh tra, đoàn kiểm toán hàng năm độc lập với bộ phận kế toán tài chính nhằm đẩy mạnh công tác kiểm toán trong hoạt động quản lý của các đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý của ngành Y tế.
3.4.2. Về phía Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam
Cơ chế tự chủ tài chính đối với Học viện vừa tạo ra những điều kiện thuận lợi nhưng đi kèm với nó cũng có nhiều thách thức và khó khăn. Những thách thức khó khăn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
- Nguyên nhân chủ quan: Tự chủ tài chính là một cơ chế thực hiện tương đối mới trong điều kiện Học viện đã có một quá trình phát triển khá lâu với cơ chế được bao cấp từ Nhà nước nên vẫn tồn tại những tư tưởng ỷ lại và trông chờ, thiếu sự vận động linh hoạt trong việc tìm nguồn thu ngoài NSNN…
- Nguyên nhân khách quan: Các chính sách về tài chính, kế toán liên quan vẫn chưa đồng bộ và cũng còn nhiều điểm không hợp lý. Đồng thời việc mở rộng nhiều loại hình cung cấp dịch vụ để đáp ứng nhu cầu thị trường cũng chưa nhuần nhuyễn tạo nên những khó khăn nhất định cho sự điều hành của Ban lãnh đạo Học viện.
Vậy để giải quyết những khó khăn này đặt ra cho các đơn vị phải có những thay đổi trong các lĩnh vực hoạt động của mình về nhiệm vụ chuyên môn, cung cấp dịch vụ, tổ chức bộ máy, công tác tài chính kế toán,…
Đối với việc tổ chức hoạt động của đơn vị trong giai đoạn phát triển và hội nhập hiện nay, Học viện nên dựa vào những điều kiện thuận lợi của mình trong phạm vi cho phép, cần chủ động hơn trong việc xây dựng kế hoạch phát triển. Học viện cần thiết phải mở rộng quy mô hoạt động đồng thời đa dạng hoá việc cung cấp các loại hình dịch vụ tương ứng với các mức học phí
phù hợp. Học viện có thể mở thêm các khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu cung cấp các dịch vụ kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu có điều kiện với mức thu tương ứng nhằm tăng nguồn thu cho phát triển hoạt động Học viện.
Ngoài ra, Học viện nên đa dạng hoá các hoạt động đầu tư và tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế và xu thế hội nhập phát triển hiện nay. Thực tế, việc đầu tư các trang thiết bị nếu chỉ trông chờ vào NSNN cấp là rất khó bởi giá trị các máy móc, trang thiết bị y tế hiện đại là rất đắt tiền trong khi NSNN cấp vốn rất eo hẹp chỉ đáp ứng cho các hoạt động thường xuyên. Do vậy, Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam cần thiết phải định hướng xây dựng kế hoạch phát triển phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Đảng, với điều kiện kinh tế xã hội và phù hợp với quy hoạch phát triển ngành Y tế như liên danh liên kết.
Bên cạnh việc thu hút các nguồn lực tài chính thì việc sử dụng nguồn lực tài chính để phục vụ hoạt động và phát triển của Học viện phải là vấn đề cần được quan tâm đối với Ban Giám đốc Học viện bởi mục tiêu cần phải phát huy hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực tài chính đã thu hút được.
Cách thức vận hành hệ thống kế toán trong mỗi tổ chức phụ thuộc rất lớn vào các nhà quản lý của tổ chức. Xuất phát từ nhu cầu thông tin kế toán của các nhà quản lý, từ nhận thức về vai trò của hệ thống thông tin kế toán mà các nhà quản lý sẽ quyết định đầu tư cho công tác kế toán của đơn vị mình như thế nào. Nếu các nhà lãnh đạo Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam không có thói quen ra quyết định trên cơ sở thông tin từ hệ thống kế toán cung cấp và yêu cầu của các nhà lãnh đạo Học viện đối với hệ thống thông tin kế toán đơn thuần chỉ là việc tuân thủ chế độ tài chính - kế toán thì rất khó thực hiện những đổi mới trong công tác kế toán. Do đó để có thể thực hiện các giải pháp nêu trên:
Thứ nhất, cần có sự đổi mới trong tư duy và trong cách ra quyết định của các nhà lãnh đạo Học viện. Các nhà lãnh đạo cần nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống thông tin kế toán trong việc quản lý tài chính Học viện, nhất là trong
điều kiện bị cắt giảm kinh phí NSNN hướng đến tự chủ toàn phần.
Thứ hai, Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam cần dành một khoản ngân sách hợp lý cho việc đầu tư vào công tác kế toán với đội ngũ nhân viên kế toán và hệ thống phần cứng, phần mềm kế toán phù hợp theo yêu cầu của công việc. Trong đó việc đầu tư cho đội ngũ nhân viên kế toán là yếu tố quyết định đến sự thành công của các giải pháp hoàn thiện nội dung công tác kế toán. Việc đầu tư cho phần mềm kế toán và nâng cao trình độ cán bộ kế toán tất nhiên sẽ phát sinh chi phí, tuy nhiên các khoản chi phí này là nhỏ so với lợi ích mà nó mang lại cho Học viện do sẽ tăng năng suất của lao động kế toán và chất lượng của công tác kế toán. Với thông tin hữu ích và kịp thời hơn, các nhà quản lý sẽ ra được các quyết định tối ưu để điều hành hoạt động của hiệu quả hơn.
Thứ ba, Học viện cần chủ động bắt kịp làn sóng xã hội hoá giáo dục, tổ chức quản lý hoạt động giáo dục phù hợp nhu cầu xã hội, loại bỏ thói quen ỷ lại vào nhà nước. Chủ động tiếp cận các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước phục vụ công tác giáo dục đào tạo. Đây chính là môi trường giúp công tác kế toán thay đổi để phản ánh đầy đủ thông tin giao dịch phát sinh và cung cấp cho mọi đối tượng trong và ngoài Học viện ra các quyết định đầu tư và quản lý.
Thứ tư, Học viện cần nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện chính sách quy chế chi tiêu nội bộ cho phù hợp, tạo điều kiện, môi trường làm việc tốt để khuyến khích cán bộ làm việc hiệu quả hơn.
Tiểu kết chương 3
Qua nghiên cứu thực trạng kế toán thu, chi và xác định kết quả các hoạt động tại Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam, tác giả đã trình bày định hướng phát triển Học viện, cũng như yêu cầu và nguyên tắc hoàn thiện kế toán thu, chi và xác định kết quả các hoạt động tại Học viện. Trên cơ sở đã chỉ ra các nguyên nhân, hạn chế ở Chương 2, tác giả đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiện kế toán thu, chi và xác định kết quả các hoạt động tại Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam nhằm khắc phục những tồn tại trong công tác kế toán hiện tại, đồng thời phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính nhằm tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức của Học viện, phù hợp với điều kiện của các đơn vị trong điều kiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
KẾT LUẬN
Cơ chế tự chủ đã mở ra cho đơn vị sự nghiệp công lập có thu là các trường Đại học công lập rất nhiều cơ hội để phát triển hoạt động trong phạm vi điều kiện của các trường nhưng bên cạnh những thuận lợi thì các trường phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức.
Hiện nay Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam hoạt động theo các chính sách xã hội hóa giáo dục theo hướng phát triển tự chủ, giảm bớt sự lệ thuộc vào nguồn kinh phí NSNN, chủ động nâng cao chất lượng dịch vụ công, mở rộng lĩnh vực đào tạo để tăng nguồn thu, giảm bớt áp lực khi nguồn kinh phí NSNN ngày một hạn hẹp.
Để làm tốt các mục tiêu trên thì các Nhà quản lý của Học viện cần có đầy đủ các thông tin về kế toán thu, chi và kết quả các hoạt động để làm cơ sở ra quyết định quản lý.
Với việc nghiên cứu về kế toán thu, chi và kết quả các hoạt động trong các đơn vị sự nghiệp công lập và thực trạng kế toán thu, chi và kết quả các hoạt động tại Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam, luận văn đã có những so sánh, đánh giá và tìm ra những mặt còn hạn chế để có căn cứ hoàn thiện các giải pháp về kế toán thu chi và kết quả các hoạt động tại Học viện trong cơ chế tự chủ nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản lý để quản lý tài chính cho đơn vị trong cơ chế tự chủ, tiến tới hội nhập quốc tế.
Trong nghiên cứu và hoàn thiện tác giả đã hết sức cố gắng và mong muốn giải quyết một cách triệt để các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu. Song do những khó khăn trong thu thập tài liệu, tìm hiểu thực tiễn cũng như năng lực nghiên cứu và tài chính của tác giả còn hạn chế nên kết quả của luận văn có những khiếm khuyết nhất định và mong các đóng góp của các nhà khoa học để tác giả hoàn thiện kiến thức và nâng cao chất lượng các công trình khoa học của mình trong tương lai.