thống nhất rằng, chi phí là thước đo bằng tiền các hao phí về các nguồn lực về tài nguyên, vật chất, lao động và phải phát sinh gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh.
KTQTCP là một nội dung của KTQT hay một bộ phận KTCP, khái niệm về KTQTCP được các tác giả đưa ra trong các nghiên cứu cụ thể. Theo Viện Kế toán viên quản trị của Mỹ cho rằng, KTQTCP là kỹ thuật hay phương pháp để xác định chi phí cho một dự án, một quá trình hoặc một sản phẩm. Chi phí này được xác định bằng việc đo lường trực tiếp, kết chuyển tuỳ ý hoặc phân bổ một cách có hệ thống và hợp lý (Montvale, N.J, 1983) “KTQTCP là hệ thống kế toán chính thức được thiết lập để ghi nhận chi phí. Nó là một quá trình hệ thống để xác định giá thành đơn vị của sản phẩm sản xuất ra hoặc dịch vụ được cung cấp” (Periasamy P, 2010). Theo VanDerbeck “KTQTCP cung cấp chi tiết TTCP theo nhu cầu của NQT để kiểm soát hoạt động kinh doanh hiện tại và lập kế hoạch cho tương lai” (Edward J. VanDerbeck, 2010). (Trích từ Lê Thế Anh 2017): Theo Phạm Thị Thủy (2007) KTQTCP là một bộ phận của hệ thống KTQT, nhằm cung cấp thông tin về chi phí để mỗi tổ chức thực hiện chức năng quản trị yếu tố nguồn lực tiêu dùng cho các hoạt động, nhằm xây dựng kế hoạch, kiểm soát, đánh giá hoạt động và ra các quyết định hợp lý; Nguyễn Hoàn (2012), xác định KTQTCP là hệ thống nhằm cung cấp thông tin cụ thể về chi phí phát sinh tại những thời điểm cụ thể, với những đặc điểm và bối cảnh chi tiết, để từ đó có những giải pháp nhằm kiểm soát chi phí; Hồ Mỹ Hạnh (2013) tiếp cận KTQTCP trên góp độ tổ chức cho rằng, Hệ thống thông tin KTQTCP là việc thu thập các dữ liệu về chi phí và xử lý các dữ liệu này theo một trình tự, để có thể cung cấp TTCP nhằm xây dựng kế hoạch chi phí, kiểm soát chi phí, từ đó đánh giá các hoạt động và ra quyết định; Nguyễn Phú Giang (2014) cho rằng, KTQTCP là một bộ phận của KTQT chuyên thực hiện việc xử lý và cung cấp thông tin về chi phí, nhằm phục vụ các chức năng của NQT như hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm tra và ra quyết định; Đào Thúy Hà (2017), KTQTCP là một phân hệ của hệ thống KTQT nhằm cung cấp trạng thái chi phí phục vụ quản trị tổ chức.
Tóm lại, tất cả các thông tin chi phí trong DN được các cấp quản trị phối hợp thu thập và phân tích đầy đủ kịp thời cho NQT các cấp, trong quá trình điều hành và ra quyết định. Quản trị chi phí được các NQT quan tâm tổ chức thu thập thông qua
hệ thống KTQTCP trong các DN. Các DN tổ chức thu thập thông tin kế toán chi phí tốt làm cơ sở để xác định giá bán, phân tích điểm hòa vốn, lập kế hoạch lợi nhuận, dự báo chi phí, kiểm soát chi phí, đưa ra các quyết định thích hợp trong các trường hợp cụ thể,… Để thực hiện các vấn đề quản trị chi phí, KTQTCP cần thiết tổ chức phân loại chi phí theo các mục tiêu quản trị như: Phân loại chi phí theo chức năng, theo cách ứng xử chi phí, theo mức độ kiểm soát chi phí,… Chính vì thế, có rất nhiều các nghiên cứu về KTQTCP theo các hướng khác nhau. Mặc dù chưa có khái niệm thống nhất, nhưng nhìn chung các tác giả đều cho rằng KTQTCP là một bộ phận của kế toán, nhằm cung cấp các thông tin về chi phí cho các NQT và thực hiện các mục tiêu nhất định trong từng giai đoạn của quản trị tổ chức.
Vậy, Các NQT trong bệnh viện cần các thông tin cung cấp chính xác để phục vụ cho việc ra quyết định hiệu quả, do vậy kế toán quản trị phải thiết kế các thông tin kế toán sao cho nhà quản trị có thể dùng vào việc thực hiện các chức năng quản trị. Kế toán quản trị có mục đích bổ sung cho kế toán tài chính, đây là hai hệ thống con của một hệ thống kế toán, cả hai nhằm mục đích mô hình hóa thông tin kinh tế của đơn vị. Tuy nhiên, chính nhu cầu bí mật các thông tin nội bộ đối với người cạnh tranh và công khai các thông tin bên ngoài cho người tài trợ là động cơ chủ yếu hình thành hai hệ thống con này. Nói một cách khác chính cạnh tranh làm xuất hiện kế toán quản trị trong đơn vị. Thông qua quá trình hình thành và phát triển của kế toán quản trị thì KTQTCP trước hết phải là kế toán chi phí. Nếu như những thông tin mà kế toán chi phí cung cấp, là những thông tin đã xảy ra trước đó, thông qua việc lập các báo cáo chi phí và giá thành dịch vụ khám chữa bệnh, nhằm kiểm soát chi phí thì thông tin có tính dự báo, thông qua việc lập kế hoạch và dự toán chi phí trên cơ sở các định mức chi phí, làm căn cứ để ra các quyết định thích hợp về giá dịch vụ khám chữa bệnh, ký kết hợp đồng, tự làm hay mua ngoài.
- KTQTCP là một bộ phận trong hệ thống thông tin của một tổ chức. Các nhà quản trị dựa vào thông tin kế toán quản trị để hoạch định và kiểm soát hoạt động của tổ chức. Thông tin kế toán quản trị chi phí có vai trò chủ đạo và chi phối toàn bộ hoạt động của tổ chức. Đó là cơ sở để đưa ra các quyết định ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của tổ chức trong nền kinh tế thị trường. Ra quyết định là chức năng và nhiệm vụ cơ bản của các nhà quản trị.
- KTQTCP nhấn mạnh đến tính dự báo của thông tin và trách nhiệm của nhà quản trị các cấp, nhằm gắn trách nhiệm của họ với chi phí phát sinh, thông qua hệ thống thông tin chi phí được cung cấp theo các trung tâm quản lý chi phí được hình thành trong bệnh viện.
- KTQTCP sẽ cung cấp các thông tin về lượng chi phí bỏ ra như thế nào khi có sự thay đổi về số lượng bệnh nhân khám chữa bệnh và điều trị bệnh, khi có sự thay đổi hay biến động chí phí thì sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chênh lệch thu chi và ai sẽ là người đứng ra chịu trách nhiệm về sự thay đổi này, từ đó đưa ra giải pháp để điều chỉnh kịp thời. Điều này cho thấy, kế toán quản trị chí phí mang nặng bản chất của kế toán quản trị hơn là kế toán chi phí thuần túy.
2.1.2. Một số đặc điểm đặc điểm hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến kế toán quản trị chi phí trong bệnh viện
KTQTCP là một công cụ cung cấp thông tin cho các cấp quản trị trong nội bộ doanh nghiệp nên khi xây dựng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Kế toán quản trị chí phí trong bệnh viện Phụ sản Nhi Bình Dương - Nghiên cứu dưới góc nhìn của trách nhiệm xã hội - 1
- Kế toán quản trị chí phí trong bệnh viện Phụ sản Nhi Bình Dương - Nghiên cứu dưới góc nhìn của trách nhiệm xã hội - 2
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Phương Pháp Xác Định Chi Phí Trong Bệnh Viện
- Nội Dung Kế Toán Quản Trị Chí Phí Trong Bệnh Viện
- Phương Pháp Xác Định Chi Phí Và Tính Giá Thành Dịch Vụ
- Mối Quan Hệ Giữa Kế Toán Quản Trị Chi Phí Và Trách Nhiệm Xã Hội Doanh Nghiệp
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
Một là, đảm bảo tính khách quan và phù hợp với đặc điểm hoạt động SXKD của doanh nghiệp: Hoạt động của doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú. Mỗi doanh nghiệp, mỗi lĩnh vực sản xuất có quy trình công nghệ sản xuất khác nhau. Do đó, việc xây dựng mô hình KTQTCP phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, từ đó mới phát huy được vai trò là công cụ đắc lực cho các NQT.
Hai là, đáp ứng được nhu cầu thông tin đa dạng của các NQT và mục tiêu kiểm soát chi phí của doanh nghiệp: Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu cung cấp thông tin mà các Nhà quản trị rất đa dạng để ra các quyết định khác nhau từ các quyết định điều hành thường nhật đến việc hoạch định các chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhu cầu đó đòi hỏi hệ thống KTQTCP phải vừa cung cấp được những thông tin chi tiết, cụ thể về từng hoạt động trong doanh nghiệp, vừa phải cung cấp những thông tin mang tính khái quát, so sánh, đánh giá các mặt hoạt động của doanh nghiệp…
Ba là, đảm bảo nguyên tắc hiệu quả và tiết kiệm: Để xây dựng và vận hành mô hình KTQTCP, các doanh nghiệp sẽ phải có những đầu tư về nhân lực, vật lực, phải có những thay đổi trong cách thức quản lý và tổ chức công tác kế toán. Tuy nhiên,
mô hình KTQTCP cần có sự kết hợp hài hòa với hệ thống kế toán tài chính (KTTC), không gây khó khăn trong việc tổ chức công tác kế toán chung, không quá tốn kém nhưng đảm bảo thông tin phải được cung cấp một cách hiệu quả.
Tổ chức thế giới - Who (1954) đã định nghĩa “BV là một bộ phận không thể tách rời của một tổ chức xã hội và y tế, chức năng của nó là chăm sóc sức khỏe toàn diện cho nhân dân, cả phòng chống bệnh và chữa bệnh, dịch vụ ngoại trú của bệnh viện phải vươn tới cả gia đình và môi trường cư trú. Bệnh viện còn là trung tâm đào tạo cán Bộ y tế và nghiên cứu sinh”. Theo các tài liệu của Who thì bệnh viện còn là một tổ chức rất phức tạp, bởi lẽ những tiến bộ trên nhiều mặt trong xã hội đã khiến người dân ý thức được rõ hơn về quyền lợi của mình, họ càng đòi hỏi cao hơn với hệ thống bệnh viện và họ muốn được cung cấp các dịch vụ y tế không chỉ trong khuôn khổ bệnh viện mà còn ở ngay tại gia đình. Thực tế cho thấy, ngày càng có nhiều loại bệnh lây lan do ô nhiễm môi trường và vì thế trách nhiệm chức năng của bệnh viện ngày càng nhiều hơn, tính phức tạp cũng tăng lên theo đó.
Trong thời gian gần đây, bệnh viện được coi là một loại tổ chức xã hội chủ chốt trong cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và đem lại nhiều lợi ích cho người bệnh và toàn xã hội. Đó là chẩn đoán, chữa trị bệnh tật cũng như là nơi người ốm dưỡng bệnh và hồi phục sức khỏe. Những thực tế trên cho thấy bệnh viện là một tổ chức phức tạp, có nhiệm vụ phục vụ lợi ích của toàn xã hội qua việc cung cấp các dịch vụ phòng và chữa bệnh bên cạnh chức năng là trung tâm đào tạo các nhân viên y tế. Những bước tiến của xã hôi trong thời gian qua đã làm thay đổi cơ bản khái niệm và quan niệm của mọi người về bệnh viện.Vì thế, việc tổ chức và quản lý bệnh viện cũng phải có thay đổi tương ứng. Quản lý bệnh viện cần thiết phải có sự hỗ trợ của các nhân viên giỏi, sao cho công tác quản lý thực sự hiệu quả để người bệnh có thể tiếp cận các dịch vụ y tế kịp thời. Muốn nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tại các bệnh viện phải dựa vào đội ngũ quản lý giỏi bên cạnh đó, việc kiểm soát chi phí cho các hoạt động tốt cũng góp phần mang lại thành công cho chất lượng dịch vụ của bệnh viện.
Các bệnh viện được tổ chức và quản lý tùy theo đặc thù của mỗi nước, phù hợp với thể chế, chính sách và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Hầu hết các nước đều có bệnh viện công và bệnh viện tư, số lượng bệnh viện công và bệnh viện tư ở
mỗi nước có sự khác nhau. Ở các nước có hệ thống y tế theo định hướng phúc lợi xã hội như Việt Nam hiện nay, bệnh viện công thường chiếm tỷ trọng lớn về số lượng và giường bệnh. Về quản lý, các bệnh viện sẽ do Bộ Y tế thống nhất quản lý nếu là quản lý tập trung (các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế), do các địa phương quản lý nếu thực hiện phân cấp, phân quyền quản lý (các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện).
Theo Partners for Health Reformplus (2004), trong bệnh viện, có nhiều hoạt động khác nhau diễn ra, từ các hoạt động phẫu thuật và các lớp học tiền sản cho nhân viên, cũng như các lớp học về vệ sinh chi nhân viên căng tin,… tuy nhiên, hoạt động chính trong các bệnh viện thường bao gồm ba hoạt động: Chăm sóc bệnh nhân (khám chữa bệnh), đào tạo và nghiên cứu. Trong đó quan trọng nhất vẫn là hoạt động khám chữa bệnh.
Đặc điểm về hoạt động dịch vụ khám chữa bệnh
Các bệnh viện nói chung và bệnh viện công lập nói riêng có nhiệm vụ chủ yếu là nhiệm vụ khám, chữa bệnh cho các đối tượng bệnh nhân. Cụ thể: Thực hiện khám, chữa bệnh, giải quyết cấp cứu, tiếp nhận điều trị nội trú và ngoại trú bệnh nhân, tham gia khám sức khỏe định kỳ và giám định pháp y khi được cơ quan có thẩm quyền trưng cầu, phục hồi chức năng và thẫm mỹ cho bệnh nhân thuộc phạm vi chuyên môn,…. Các hoạt động chủ yếu trong các bệnh viện bao gồm: Khám, chữa bệnh Bảo hiểm y tế; Khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, bệnh nhân nghèo; Khám chữa bệnh dịch vụ; Chăm sóc bệnh nhân bao gồm chăm sóc ngoại trú, chăm sóc ban ngày và chăm sóc bệnh nhân nội trú. Sự khác biệt chủ yếu giữa ba loại chăm sóc là thủ tục và nguồn lực tham gia. Bệnh nhân ngoại trú là điều trị mà không được nhập viện, là bệnh nhân chăm sóc ban ngày ở lại trên giường bệnh trong ngày (để phục hồi từ phẫu thuật ngoại trú, hoặc các thủ tục chẩn đoán hoặc điều trị) và bệnh nhân nội trú dành nhiều hơn một ngày trong bệnh viện. Chăm sóc bệnh nhân ngoại trú bao gồm dịch vụ được cung cấp bởi các khoa cấp cứu cho bệnh nhân như nhận thuốc, phòng khám ngoại trú và nhiều khu vực khác trên cơ sở bệnh viện. Đặc điểm hoạt động này ảnh hưởng đến kế toán quản trị chi phí như việc xác định phương pháp để tính giá dịch vụ khám chữa bệnh, lập dự toán chi phí cho hoạt động khám chữa bệnh, định mức chi phí về vật tư tiêu hao cho một ca bệnh/ca mổ/ca điều trị, phân bổ chi phí chung cho ca điều trị khám chữa bệnh, xác định giá
của dịch vụ khám chữa bệnh tự nguyện, khám Giáo sư,….
Đặc điểm về hoạt động dịch vụ đào tạo
Theo Partners for Health Reformplus (2004) viết rằng, “Đào tạo trong bệnh viện đòi hỏi các hoạt động được thiết kế để truyền đạt kiến thức về lâm sàng học và phát triển chuyên môn. Việc đào tạo có thể được thực hiện trong lớp học hoặc là đào tạo tại chổ trong công việc hoặc có thể tự định hướng”. Đào tạo trong công việc bao gồm: Đào tạo kiểu chỉ dẫn công việc; Đào tạo theo kiểu học nghề; Đào tạo theo kiểu kèm cặp và chỉ bảo; Đào tạo theo kiểu luân chuyển và thuyên chuyển công việc. Ngoài ra, còn có các loại hình đào tạo khác như: Đào tạo kiểu phòng thí nghiệm, mô hình hóa hành vi, đào tạo kỹ năng xử lý trong công việc,…. Tóm lại, bệnh viện chính là cơ sở thực hành để đào tạo cán bộ Y tế. Các thành viên trong bệnh viện phải mẫu mực trong thực hiện quy chế bệnh viện và quy định kỹ thuật bệnh viện. Đào tạo cán bộ trong ngành y tế là một việc rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả khám chữa bệnh, chăm sóc bệnh nhân trong các cơ sở y tế, hơn thế nữa thực hành trong lĩnh vực y tế là thực hành trên bệnh nhân nên công tác đào tạo này yêu cầu rất nghiêm ngặt trong xử lý các tình huống bệnh tật trên từng người bệnh. Từng nhân viên y tế trong cơ sở phải tuyệt đối thực hiện đúng quy trình kỹ thuật bệnh viện, điều này sẽ có tác dụng trong việc khám chữa bệnh và giảng dạy tốt. Đặc điểm này ảnh hưởng đến kế toán quản trị chi phí như việc lập dự toán và định mức cho một khóa đào tạo/ học viên, xác định giá thành cho một khóa đào tạo,….
Đặc điểm về hoạt động nghiên cứu khoa học
Partners for health Reformplus (2004) viết rằng “ Nghiên cứu khoa học bao gồm các hoạt động với mục đích chính để nâng cao kiến thức thông qua quan sát, thí nghiệm, hoặc các phương tiện khác để cung cấp dịch vụ chăm sóc bệnh nhân một cách tốt nhất”. Bệnh viện là nơi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe người bệnh. Nghiên cứu khoa học có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển chất lượng chuyên môn của bệnh viện. Sản phẩm của các đề tài nghiên cứu khoa học có nhiều nội dung thiết thực, có ý nghĩa thực tiễn và khoa học cao sẽ góp phần giải quyết tốt mục tiêu nâng cao chất lượng chẩn đoán, chăm sóc và điều trị người bệnh.
Trên thực tế hiện nay, ở Việt Nam các bệnh viện công là nơi Nhà nước hàng năm thường phải đầu tư cho việc nghiên cứu khoa học và ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới vào công tác khám chữa bệnh cho nhân dân với các đề tài cấp Nhà nước, đề tài Bộ đang được thực hiện tại bệnh viện rất đa dạng dưới nhiều hình thức như các chương trình trọng điểm Quốc gia, đề tài phát sinh theo nhiệm vụ cấp bách, đề tài chỉ định, tuyển chọn,…. Công tác nghiên cứu khoa học phải tập trung gắn liền với định hướng phát triển chuyên môn theo từng giai đoạn cụ thể của bệnh viện. Đặc điểm này ảnh hưởng đến kế toán quản trị chi phí như lập dự toán cho mỗi đề tài nghiên cứu khoa học, định mức chi cho mỗi đề tài/người tham gia nghiên cứu, xác định phương pháp tính giá theo đơn đặt hàng cho mỗi đề tài nghiên cứu,…
Tóm lại, từ các đặc điểm hoạt động của các bệnh viện và trong điều kiện thực hiện tự chủ tài chính, các nhà quản trị bệnh viện cần chú ý nhiều hơn đến việc tăng cường hệ thống quản trị chi phí, quản trị chi phí hiệu quả sẽ giúp công tác quản lý với các thông tin và sự phản hồi cần thiết để tạo ra giá trị cho tổ chức. Sự thay đổi về tư duy cũng như về cơ chế chính sách quản lý khi mà cơ chế tự chủ tài chính càng ngày càng được tăng cường, đòi hỏi cần có các thông tin quản trị chi phí thích hợp, đáng tin cậy để các nhà quản trị trong các bệnh viện ra quyết định cho tính chiến lược cũng như trong các quyết định tác nghiệp hàng ngày cho phù hợp. Về cơ bản, các nội dung kế toán quản trị chi phí hoạt động trong các bệnh viện luôn lấy dự toán làm cơ sở, bên cạnh đó cũng cần xây dựng định mức chi phí, xác định phương pháp tính giá dịch vụ khám chữa bệnh sao cho đạt hiệu quả tối ưu về chí phí.
2.1.3. Tổ chức kế toán quản trị chi phí trong bệnh viện
Trên thế giới đã có nhiều quốc gia áp dụng cơ chế tài chính tự chủ và đạt được hiệu quả cao mà điển hình là Mỹ. Hệ thống bệnh viện tại Mỹ hoàn toàn dựa vào khoản thanh toán từ các quỹ BHYT, BHXH và thu viện phí trực tiếp hoặc thu phí đồng chi trả BHYT. Nhà nước chỉ cung cấp tài chính cho các bệnh viện qua chương trình bảo hiểm sức khỏe cho người cao tuổi (Medicare) và cho người nghèo (Medicail). Ngoài ra nhà nước trực tiếp tài trợ cho nghiên cứu y khoa và đào tạo bác sĩ. Cách tổ chức trên đã khuyến khích nền y tế phát triển và không ai có thể phủ nhận một điều là Mỹ đang là quốc gia đi dầu trên thế giới về áp dụng các tiến bộ y học và chăm sóc sức khỏe tốt nhất thế giới. Jason (2011).
Cơ chế tài chính trong bệnh viện là một nội dung của chính sách kinh tế - tài chính y tế do Bộ Y tế chủ trương, với trọng tâm là sử dụng các nguồn lực đầu tư cho ngành y tế để cung cấp dịch vụ y tế một cách hiệu quả và công bằng. Tính hiệu quả chú trọng đến trình độ trang thiết bị kỹ thuật, phương pháp phân phối nguồn lực, hiệu lực quản lý hành chính và chất lượng dịch vụ y tế cung cấp cho nhân dân. Tính công bằng đòi hỏi cung cấp dịch vụ y tế bằng nhau cho những người có mức độ bệnh tật như nhau, thỏa mãn nhu cầu khám chữa bệnh của mọi người khi ốm đau theo một mặt bằng chi phí nhất định mà không đòi hỏi khả năng chi trả của người bệnh là điều kiện tiên quyết.
Cơ chế tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với các bệnh viện nhất là trong giai đoạn tự chủ tài chính như hiện nay, thể hiện:
Thứ nhất, Đối với hoạt động khám chữa bệnh của các tuyến bệnh viện trên cả nước, trong điều kiện các bệnh viện đều tự chủ tài chính sẽ đảm bảo cung cấp dịch vụ công bằng, nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh cho nhân dân, sử dụng hiệu quả ngân sách Nhà nước, tạo lộ trình xóa bỏ bao cấp Nhà nước qua giá, phí dịch vụ công như hiện nay theo hướng tính đủ tiền lương, chi thường xuyên phù hợp với khả năng của Ngân sách Nhà nước và thu nhập của người dân. Từ đó, Nhà nước sẽ tiến tới đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ dựa trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật. Bên cạnh đó, việc xây dựng giá, phí dịch vụ khám chữa bệnh theo nguyên tắc thị trường, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các bệnh viện nói chung, không phân biệt bệnh viện công - bệnh viện tư. Điều này tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng giữa các loại hình dịch vụ y tế, các bệnh viện muốn thu hút được người bệnh đến khám và chữa bệnh thì bắt buộc phải nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ, chất lượng dịch vụ và phải phát triển kỹ thuật hiện đại trong điều trị và khám bệnh .
Thứ hai, Cơ chế tài chính đảm bảo quyền tự chủ của bệnh viện đối với vấn đề biên chế, bộ máy và tiền lương. Bệnh viện toàn quyền chủ động trong việc xây dựng bộ máy hoạt động, tuyển chọn lao động trên nguyên tắc hiệu quả và tiết kiệm. Tiền lương tăng thêm trên cơ sở thực hiện cơ chế tài chính tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định số 60 của Chính phủ. Theo đó, đối với các đơn vị tự bảo đảm một phần tài chính được tăng thêm không quá 2 lần tiền lương theo chế độ; đối với