Kế Toán Tổng Hợp Chi Phí Sản Xuất Và Tính Giá Thành Sản Phẩm Ở Công


Sau khi nhập liệu xong, phần mềm kế toán sẽ tự động kết chuyển vào các sổ tương ứng. Sổ chi tiết 627 (Phụ lục 2.17), sổ nhật kí chung,…

Đề nghị thanh toán chi phí tiền lương, điện nước, cung cấp


Trình duyệt giám đốc


Bảng tổng hợp chi phí


Bảng trích khấu hao TSCĐ, hóa đơn tài chính,…

Hạch toán từ phần mềm kế toán

Sổ nhật kí chung

Sổ chi tiết TK

Sổ cái TK 627

Sơ đồ 2.6: Quy trình hạch toán Chi phí sản xuất chung

Ngày 31/10/2020, kế toán nhận được chứng từ vận chuyển xà bần ra khỏi công trình tại công trường Vinhomes Smart City của công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Phát về giá trị hoàn thành đợt 1 theo Hợp đồng số 207/2019/HĐXL/F1/AP-SP kí ngày 20/07/2020

Kế toán hạch toán:

Nợ TK 627: 94.069.030

Có TK 3311: 94.069.030

Nợ TK 1331: 9.406.903

Có TK 3311: 9.406.903

Tại Công ty Anh Phong, chi phí phát sinh tại các công trình/dự án nào sẽ được tập hợp và kết chuyển chi phí cho công trình/dự án đó.

Việc kết chuyển chi phí các công trình/dự án được thực hiện vào cuối năm tài chính.

Các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung trên các TK 621, 622, 627 được kết chuyển sang TK 154 theo từng công trình, số liệu này được phản ánh vào sổ cái TK 154.



ty.

2.2.3. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công


2.2.3.1. Công tác kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang cuối kì

Ở Công ty Anh Phong sử dụng phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo

khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương.

Do đặc thù của hoạt động xây lắp, cộng với công ty thường tính giá thành theo toàn bộ công trình hoặc hạng mục công trình nên toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh tính từ khi thi công cho đến thời điểm cuối mỗi quý đều là giá trị sản phẩm dở dang. Tại công ty, mặc dù hàng tuần phòng Kỹ thuật vẫn tiến hành báo cáo tiến độ thi công các công trình, tuy nhiên công tác đánh giá sản phẩm dở dang lại được tiến hành một lần vào cuối năm. Việc xác định khối lượng xây lắp hoàn thành trong công ty được thực hiện bởi phòng kĩ thuật, phòng kĩ thuật tiến hành việc kiểm kê tiến độ thi công của công trình để xác định khối lượng xây lắp dở dang. Kĩ thuật công trình cùng với chỉ huy trưởng tiến hành kiểm kê tại công trình, xác định khối lượng xây lắp dở dang cuối kì cho từng công trình, hạng mục công trình. Sau đó sẽ lắp giá XDCB phù hợp với từng phần việc của từng công trình, hạng mục công trình để tính ra chi phí dự toán của toàn bộ khối lượng xây lắp dở dang rồi lập bảng kiểm kê khối lượng xây lắp dở dang cuối kì gửi về phòng kế hoạch, kĩ thuật. Phòng kế toán sau khi nhận được bảng kiểm kê khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ từ phòng kỹ thuật tiến hành xác nhận chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ.

Việc xác định chi phí của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ được thực hiện thông qua giá trị dự toán của các giai đoạn chưa hoàn thành.

Công thức xác định:


Giá trị SPDD

cuối kỳ


=


SPDD

đầu kỳ


+

Khối lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ


-

Khối lượng sản phẩm hoàn thành đã được

NTTT

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH tư vấn Xây dựng và Thương mại Anh Phong - 10


Việc kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ của Công ty được tiến hành vào ngày 31/12 hàng năm. Khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ là khối lượng chưa được nghiệm thu và chưa được chấp nhận thanh toán.

Số liệu để đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ (Phụ lục 2.18).

2.2.3.2. Đối tượng và kì tính giá thành sản phẩm

Đối tượng tính giá thành thành phẩm:

Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra và cần phải tính được giá thành và giá thành đơn vị.

Xác định đối tượng tính giá thành cũng là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm của kế toán. Bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, các loại sản phẩm và lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất, tính chất sản xuất của chúng để xác định đối tượng tính giá thành cho thích hợp.

Trong sản xuất xây dựng, sản phẩm có tính đơn chiếc, đối tượng tính giá thành là từng công trình, hạng mục công trình đã xây dựng hoàn thành. Ngoài ra đối tượng tính giá thành có thể là từng giai đoạn hoàn thành quy ước, tuỳ thuộc vào phương thức bàn giao thanh toán giữa đơn vị xây lắp và chủ đầu tư.

Ở Công ty Anh Phong đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đồng thời cũng là đối tượng tính giá thành. Cụ thể đó là công trình, hạng mục công trình hoàn thành bàn giao theo các giai đoạn giữa chủ đầu tư và bên thi công.

Kỳ tính giá thành:

Do sản phẩm xây lắp được sản xuất theo từng đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất dài, công trình, hạng mục công trình chỉ hoàn thành khi kết thúc một chu kỳ sản xuất sản phẩm cho nên kỳ tính giá thành thường được chọn là thời điểm mà công trình, hạng mục công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng.

Hàng tháng, kế toán tiến hành tập hợp các chi phí sản xuất theo các đối tượng tính giá thành (đơn đặt hàng). Khi nhận được biên bản nghiệm thu bàn giao công trình hoàn thành đưa vào sử dụng mới sử dụng số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp theo từng đối tượng từ khi bắt đầu thi công cho đến khi hoàn thành để tính giá thành


và giá thành đơn vị (nếu có, như căn nhà trong dãy nhà…). Như vậy, kỳ tính giá thành có thể sẽ không phù hợp với kỳ báo cáo kế toán mà phù hợp với chu kỳ sản xuất sản phẩm. Do đó, việc phản ánh và giám sát kiểm tra của kế toán đối với tình hình thực hiện kế hoạch chỉ thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi chu kỳ sản xuất sản phẩm đã kết thúc.

Trên cơ sở đối tượng tính giá thành của công ty là công trình, hạng mục công trình hoàn thành bàn giao theo các giai đoạn quy ước giữa chủ đầu tư và công ty và tổ chức công tác kế toán tại công ty. Công ty xác định kỳ tính giá thành của doanh nghiệp là theo năm hoặc khi có nhu cầu về công tác kiểm tra hoặc phục vụ báo cáo quản trị.

2.2.3.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm thực tế ở công ty

Trong doanh nghiệp xây lắp, đặc thù mỗi sản phẩm đều có dự toán riêng và đối tượng để tính giá thành sản phẩm xây lắp chính là các hạng mục công trình, hay toàn bộ công trình, hoặc khối lượng công tác xây lắp hoàn thành. Vận dụng từng đặc thù của từng loại hình doanh nghiệp ta có phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp khác nhau, thì đối với công việc của kế toán xâp lắp và vô cùng phức tạp.

Phương pháp tính giá thành mà công ty áp dụng là phương pháp trực tiếp. Do công ty có số lượng công trình tương đối lớn, đối tượng tập hợp chi phí phù hợp với đối tượng tính giá thành từng công trình hoặc hạng mục công trình.

Giá thành thực tế khối lượng xây lắp hoàn thành bàn

giao


=


Chi phí thực tế dở dang đầu kỳ


+


Chi phí thực tế phát sinh trong kỳ


-


Chi phí thực tế dở dang cuối kỳ

Trong trường hợp chi phí sản xuất theo công trình hoặc cả công trình nhưng thực tế phải tính riêng cho từng hạng mục công trình thì kế toán sẽ căn cứ vào chi phí sản xuất của cả nhóm hoặc hệ số kỹ thuật đã quy định áp dụng cho từng hạng mục công trình.

Khi sản phẩm hoàn thành = Tổng chi phí theo đối tượng hạch toán = Tổng giá thành sản phẩm sản xuất.


Để tính chi phí công ty sử dụng phương pháp hệ số. Căn cứ vào chi phí sản xuất tập hợp cho từng công trình, hạng mục công trình hoàn thành trong năm và giá trị khối lượng xây lắp dở dang đầu kỳ, dở dang cuối kỳ.

Bảng tính giá thành sản phẩm (Phụ lục 2.19).

2.3. Đánh giá công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây dựng tại Công ty TNHH tư vấn xây dựng và thương mại Anh Phong.

2.3.1 Ưu điểm

- Về công tác tổ chức bộ máy kế toán:

Phòng kế toán được bố chí khá gọn nhẹ hợp lý. Tuy ít người nhưng với tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn cao, cộng với sự trợ giúp của máy vi tính họ vẫn đảm đương một khối lượng rất lớn, phát sinh với mật độ dày đặc. Mỗi người đảm nhận một công việc nhất định không chồng chéo lên nhau và cũng không tập chung quá nặng vào một người, đã tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng trong công việc.

- Về hình thức kế toán được lựa chọn và áp dụng:

Hình thức kế toán được áp dụng tại công ty là hình thức Nhật ký chung. Việc lựa chọn hình thức này rất chính xác và khoa học, phù hợp với đặc điểm thực tế của công ty là công việc nhiều, số lượng cán bộ kế toán không nhiều và thực hiện công nghệ hoá công tác kế toán. Theo hình thức kế toán này, công ty đã mở một hệ thống sổ sách kế toán nói chung là đầy đủ.

- Về hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:

Công ty thực hiện khá đầy đủ các quy định về việc tập hợp chi phí NVLTT cho từng CT, HMCT. Các chứng từ đều được tập hợp riêng cho từng công trình và hạng mục công trình ở các đội xây lắp trước khi giao cho phòng tài chính-kế toán, kế toán chi tiết TK 621 theo từng công trình, hạng mục công trình để hạch toán CPNVLTT, giúp thuận tiện trong việc tập hợp chi phí cho từng đối tượng cũng như kiểm tra đối chiếu và phục vụ công tác quản trị hiệu quả hơn.

- Về hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:

Chi phí nhân công trực tiếp được tập hợp riêng cho từng công trình, hạng mục công trình thuận tiện cho việc tập hợp chi phí và quản trị doanh nghiệp. Công ty có


nguồn lao động là: Lao động trong danh sách của công ty và lao động đi thuê phù hợp khi thi công các công trình ở xa, góp phần giảm chi phí nhân công như chi phí vận chuyển nhân công.

- Về hạch toán chi phí sử dụng máy thi công:

Chi phí sử dụng máy thi công cũng được tập hợp riêng cho từng công trình, hạng mục công trình. Đặc biệt 100% máy thi công của công ty là đi thuê tạo được sự linh hoạt khi điều động máy thi công, đối với các công trình ở xa thi việc này giúp giảm chi phí điều động máy thi công.

- Về hạch toán chi phí sản xuất chung:

Công ty cũng tập hợp riêng chi phí sản xuất chung cho từng công trình, hạng mục công trình, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán chi phí chính xác và hiệu quả.

- Về công tác hoạch toán kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm:

Công tác kế toán tập hợp CPSX và tính GTSP tại Công ty đã hạch toán chi phí cho từng CT, HMCT một cách rõ ràng phục vụ tốt cho yêu cầu quản lý chi phí và hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty. Công ty chấp hành đầy đủ các chính sách, chế độ do Nhà nước ban hành. Việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được thực hiện trên hệ thống sổ sách kế toán phù hợp nhờ đó mà công tác kế toán CPSX và tính GTSP ở Công ty đã góp phần trong việc đảm bảo hoạt động sản xuất

- kinh doanh ở Công ty đạt hiệu quả cao.

Việc thực hiện kế toán CPSX và tính GTSP theo phương pháp KKTX cho phép Công ty có thể kiểm soát được từng lần nhập, xuất vật tư, hạn chế tình trạng thất thoát, sử dụng lãng phí. Sản phẩm xây lắp thường có kết cấu phức tạp, giá trị lớn, thời gian thi công kéo dài, tình hình nhập, xuất NVL được phản ánh thường xuyên, kịp thời theo từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh cho phép tính đúng, tính đủ CPSX cho từng đối tượng liên quan, giúp cho nhà quản trị nắm bắt được tình hình sử dụng các loại NVL một cách chính xác từ đó có quyết định đúng đắn, kịp thời thúc đẩy hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty. Kế toán chi phí nhân công tương đối rõ ràng đảm bảo nguyên tắc "Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít".


Góp phần vào việc sử dụng hợp lý lao động và nâng cao năng suất lao động. Việc áp dụng hình thức trả lương theo thời gian kết hợp với trả lương theo sản phẩm đã tạo điều kiện gắn kết hợp lợi ích vật chất của người lao động và tiến độ thi công xây lắp.

Bộ phận kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm luôn chủ động sáng tạo. Luôn cố gắng tìm ra biện pháp quản lý chi phí. Phương pháp tập hợp các tiêu thức phân bổ chi phí nhằm có được kết quả công việc cao nhất, số liệu thông tin kế toán cung cấp là chung thực khách quan nhất.

Việc xác định đối tượng tập hợp chi phi sản xuất là toàn bộ quá trình xây lắp công trình kỳ tính giá thành theo quý là khá hợp lý và phù hợp với điều kiện và đặc thù riêng của nghành xây lắp. Việc đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ là phù hợp với nhu cầu đặc điểm của doanh nghiệp.

2.3.2 Hạn chế

Việc phân loại chi phí sản xuất của Công ty đã hoàn thiện, phù hợp với đối tượng tổng hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp của công ty. Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được trình bày ở trên, Công ty TNHH Tư vấn Xây dựng và Thương mại Anh Phong vẫn còn những tồn tại trong công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, cụ thể:

- Chế độ kế toán hiện nay đã được cải cách cơ bản, nhưng kế toán công ty Anh Phong vẫn chưa cập nhật, áp dụng chuẩn mực kế toán được ban hành. Chưa tuân thủ chế độ kế toán nhà nước quy định và cơ chế quản lý tài chính. Chưa hạch toán thống nhất với chế độ kế toán và cơ chế tài chính do nhà nước ban hành.

- Việc luân chuyển chứng từ trong công ty còn chậm, cuối tháng chứng từ mới được chuyển về công ty, do vậy công việc kế toán thường dồn lại vào cuối tháng hoặc có thể sang tháng sau. Đồng thời do việc luân chuyển chậm như trên dẫn đến tại thời điểm bất kỳ kế toán công ty không nắm được chi phí thực tế phát sinh bao nhiêu tại công trình.


- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là một khoản mục chi phí rất quan trọng, chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng giá thành sản phẩm xây lắp tuy nhiên đây cũng là một trong những loại chi phí khó kiểm soát nhất trong các công ty xây lắp.

Mặt khác, khi công trình hoàn thành số vật liệu còn lại tại các công trình do chưa sử dụng hết, phế liệu thu hồi cũng không được đảm bảo điều này làm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thực tế phát sinh trong kì không phản ánh được đúng thực tế. Có những công trình ở xa công ty thì việc thu mua NVL được chuyển thẳng tới công trình mà không qua kho. Điều này tạo ra sự lỏng lẻo trong quản lý các khoản chi phí, giúp mưu lợi cá nhân. Việc tổ chức quản lý các loại vật tư, nhiên liệu không được tốt, việc sử dụng chưa tiết kiệm và sử dụng một cách có hiệu quả.

- Bảng thanh toán tiền lương do kế toán đội lập tính chung cho các tổ trong đội chưa thuận tiện, gây khó khăn cho kế toán công ty trong việc theo dõi, tính và trả lương cho công nhân các tổ. Công nhân trực tiếp thi công trong công trình không phải chỉ là công nhân trong công ty mà còn có công nhân thuê ngoài. Việc đi thuê ngoài này chỉ dựa vào chứng từ thuê ngoài phải trả, thông qua biên nhận và chữ ký của công nhân nên việc trả lương có thể có gian lận.

Một hạn chế nữa là trong khoản mục chi phí nhân công trực tiếp của công ty, kế toán không trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất. Điều này ảnh hưởng đến tâm lý người lao động, chưa phát huy hết năng suất lao động của họ.

- Công ty hạch toán các nghiệp vụ đơn giản, tập hợp thẳng chi phí cho từng hạng mục công trình, không phân bổ chi phí sản xuất chung nên khi tập hợp chi phí để xác định giá thành cho từng công trình chưa chính xác, nhiều chi phí như công cụ dụng cụ cần được phân bổ cụ thể.

Hiện nay bộ máy kế toán tại Công ty TNHH Tư vấn Xây dựng và Thương mại Anh Phong chỉ gồm 4 người. Công ty ngày càng phát triển lớn mạnh, số lượng các nghiệp vụ phát sinh ngày càng tăng. Do đó, bộ máy kế toán tại Công ty rất vất vả trong việc tập hợp các loại chi phí, nhất là vào thời điểm cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Sự thiếu hụt nhân viên chắc chắn sẽ hạn chế phần nào khả năng của bộ máy kế toán tại Công ty.

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 26/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí