Các Nghiệp Vụ Cơ Bản Của Ngân Hàng Thương Mại


2.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại

Hoạt động kinh doanh của một NHTM rất đa dạng, nhưng chúng ta có thể phân làm các nhóm nghiệp vụ cơ bản sau:

2.1.3.1. Thanh toán

Quá trình hoạt động, NHTM đưa ra các cơ chế thanh toán và thực hiện các cơ chế thanh toán đó, hay còn gọi là NHTM cung cấp các DV thanh toán. Tại các nước, phần lớn công tác thanh toán được thực hiện thông qua séc và phần lớn séc thanh toán được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống NHTM. Khi việc thanh toán bù trừ diễn ra giữa các NH thuộc các địa bàn khác nhau trong cả nước, thì việc thanh toán được thực hiện thông qua các NH đại lý hoặc bằng phương pháp thanh toán bù trừ qua NHTW. Hệ thống NH đại lý phát triển sẽ làm giảm đáng kể khối lượng thanh toán bù trừ qua NHTW.

Ngày nay, nhờ có công nghệ hiện đại, hệ thống NH được trang bị đầy đủ máy vi tính sẽ làm cho quá trình thanh toán bù trừ được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và có độ chính xác cao. Ở các nước công nghiệp hiện nay đã có những đổi mới quan trọng, hoạt động NH không dùng séc mà dùng hình thức chuyển tiền điện tử để thay thế. Các nước còn đưa vào sử dụng một số hệ thống thẻ như là thẻ TD, họ nối mạng hệ thống máy tính để thực hiện chuyển vốn từ TK người mua sang tài khoàn người bán một cách dễ dàng nhanh chóng, thực hiện việc thanh toán công nợ và chuyển vốn giữa TK tiết kiệm và TK séc của cùng một chủ TK.

2.1.3.2. Huy động vốn

Đây là hoạt động thường xuyên của các NHTM và là hoạt động rất quan trọng đối với bản thân NH cũng như đối với nền kinh tế. Ta biết rằng, trong nền kinh tế luôn tồn tại một bộ phận tiền nhàn rỗi trong dân chúng và trong các tổ chức kinh tế – xã hội, bộ phận này nếu được huy động tập trung


sẽ tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Các NHTM, với vai trò và vị trí của mình là một trung gian tài chính, đứng ra huy động tập trung nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, từ đó đầu tư đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Để có nguồn vốn lớn, đáp ứng nhu cầu vốn vay ngày càng tăng lên từ phía KH, các NHTM áp dụng nhiều biện pháp phong phú, đa dạng để HĐV:

- Phong phú về kỳ hạn huy động: Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn;

Huy động vốn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 3

- Phong phú về công cụ huy động: Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để HĐV của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;

- Phong phú về nguồn huy động: Vay trên thị trường tiền tệ, vay trong dân chúng, các tổ chức kinh tế trong nước, vay trên thị trường vốn quốc tế.

-Phong phú về cách thức hấp dẫn người gửi tiền: Tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi một nơi lấy ra ở nhiều nơi …

Thực hiện hoạt động nhận tiền gửi, NHTM quản lý được một khối lượng lớn tiền của nền kinh tế. Đây chính là nguồn vốn để NH tài trợ trở lại đối với nền kinh tế.

2.1.3.3. Cho vay

Đây là hoạt động sử dụng nguồn tiền mà NHTM đã huy động được trong nền kinh tế. Các NHTM thực hiện cho vay theo nhiều phương thức, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng. Cụ thể :

- Cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các NH đã thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với người bán hàng (người bán chuyển khoản phải thu cho NH để lấy tiền trước). Sau đó, các NH cho vay trực tiếp đối với KH (là người mua hàng), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ để mở rộng sản xuất, kinh doanh.


- Cho vay tiêu dùng. Trước đây, hầu hết các NH không mặn mà với các khoản cho vay cá nhân và hộ gia đình vì họ đều cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro cao. Tuy nhiên, từ sau Thế chiến II, do sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và áp lực cạnh tranh đã buộc các NH phải hướng tới người tiêu dùng và coi đây là KH tiềm năng của mình. Thực tế ở các nước phát triển cho thấy, TD tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình TD tăng trưởng nhanh nhất

- Tài trợ dự án. Ngoài thực hiện nghiệp vụ truyền thống là cho vay ngắn hạn, các NH ngày càng năng động trong cho vay tài trợ các dự án, đặc biệt là tài trợ trong các ngành công nghệ cao. Một số NH còn cho vay để đầu tư vào bất động sản.

- Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Thông qua mua trái phiếu Chính phủ phát hành, hoặc cho vay với các điều kiện ưu đãi đối với các DN của Chính phủ.

- Bảo lãnh. Do uy tín cũng như khả năng tài chính của mình, các NH thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho KH trong mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các TCTD khác…

- Thuê mua. Thực chất đây là nghiệp vụ cho thuê vốn, nhưng vốn cho thuê không phải bằng tiền mà là dưới hình thức tài sản (văn phòng, máy móc thiết bị, tài sản khác).

Thuê mua có 3 loại:

(1) Thuê mua đơn thuần trong đó, người đi thuê chọn máy móc thiết bị và nhà cung cấp, sau đó người cho thuê là các NHTM sẽ mua thiết bị này và chuyển nó cho người đi thuê sử dụng theo hợp đồng thuê mua.

(2) Thuê mua trực tiếp: Theo hình thức này thì NHTM sẽ cho người đi thuê sử dụng thiết bị mà họ có sẵn.


(3) Thuê mua liên kết: Đối với những tài sản cho thuê có giá trị lớn, nhiều NHTM hoặc liên kết giữa NHTM với các nhà sản xuất sẽ hợp tác cùng nhau để tài trợ cho người đi thuê (liên kết ngang). Cũng có thể các NHTM giao tài sản của họ cho các Chi nhánh thực hiện DV cho thuê (liên kết dọc).

Hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của các NHTM là mở rộng cho vay, đương nhiên là phải tuân thủ các điều kiện và nguyên tắc cho vay. Hoạt động cho vay của các NHTM được hình thành từ rất sớm, ngay từ khi thành lập các NH. Những người tổ chức ra NHTM, ngay từ đầu đã luôn tìm kiếm các cơ hội để tiến hành cho vay, coi đó như là một nhu cầu chủ yếu trong việc duy trì và mở rộng hoạt động của mình. Các NHTM đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, thông qua hoạt động cho vay vốn đầu tư được mở rộng và từ đó làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên.

2.1.3.4. Tài trợ ngoại thương

Ngoại thương được hình thành và bắt nguồn từ các hoạt động nội thương, nhưng có sự khác nhau về hệ thống tiền tệ ở mỗi nước. Ngay từ khi ngoại thương xuất hiện và phát triển, các NHTM đã tiến hành cung ứng các nghiệp vụ NH quốc tế đối với hoạt động ngoại thương như: chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, TD thư, chuyển tiền, mua và bán séc du lịch...

Khi tài trợ cho hoạt động ngoại thương, các NHTM còn góp phần vào quá trình tự do hóa ngoại thương giữa các nước với một chi phí hợp lý. Ngày nay do quá trình hội nhập, hợp tác và phân công lao động có tính chất quốc tế, nghiệp vụ tài trợ ngoại thương của các NHTM cũng tăng lên không ngừng.

2.1.3.5. Dịch vụ ủy thác

Dịch vụ ủy thác là một trong nhiều DV được NHTM thực hiện, tách khỏi các tài sản thuộc sở hữu của NH và như vậy không thể hiện trên bảng tổng kết tài sản của các NHTM. Với DV ủy thác, NHTM có trách nhiệm sử dụng vốn để đầu tư và quản lý số vốn này, kể cả việc phân phối thu nhập theo


các điều khoản của hợp đồng ủy thác. DV ủy thác được chia thành ba lĩnh vực chính: việc ấn định tài sản, việc điều hành các DV ủy thác và giám hộ tài sản, hoạt động của các cơ quan đại diện. Chức năng quan trọng nhất đối với các DV ủy thác là làm đại lý thanh toán và giữ sổ theo dõi các trái phiếu cho các công ty, các DV liên quan đến việc phát hành và mua lại chứng khoán.

2.1.3.6. Bảo quản vật có giá

Các NHTM là nơi có kho tàng kiên cố dùng để bảo quản tiền bạc và vật có giá khác của NH, đồng thời có điều kiện để thực hiện chức năng bảo quản vật có giá của KH. So với các hoạt động khác, kể cả với hoạt động cho vay, hoạt động bảo quản vật có giá của NHTM được ra đời sớm nhất.

Công việc bảo quản vật có giá ở mỗi NH được chia thành hai bộ phận: Cho thuê két sắt bảo quản ký thác và trực tiếp bảo quản vật có giá của KH.Với cho thuê két sắt và bảo quản ký thác, KH có quyền kiểm tra tài sản có giá của mình vào bất cứ thời điểm nào, các NH chỉ đơn thuần cung cấp kho, két sắt bảo quản và các phương tiện cần thiết khác. Khác với cho thuê két sắt bảo quản ký thác, việc bảo quản an toàn các giấy tờ có giá tồn tại ở những NH làm nhiệm vụ quản trị giấy tờ có giá. Bảo quản vật có giá liên quan trực tiếp đến việc bảo quản các chứng khoán như trái phiếu và cổ phiếu được giữ lại làm bảo đảm đối với các khoản nợ vay.

Để đảm bảo uy tín đối với KH, hoạt động bảo quản vật có giá chỉ diễn ra ở các NH lớn, nơi có điều kiện hình thành các kho riêng biệt, bảo đảm an toàn và chắc chắn.

Bên cạnh những hoạt động chính vừa nêu ở trên các NH hiện đại ngày nay còn bổ xung thêm vào danh mục hoạt động của mình những DV mới như:

- Dịch vụ bảo hiểm: Hiện nay, các NH thường bán bảo hiểm cho KH thông qua các liên doanh hoặc thoả thuận các đại lý kinh doanh độc quyền, theo đó, một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại chi nhánh NH và NH sẽ nhận thu nhập từ các DV bảo hiểm đó.


- Dịch vụ cung cấp kế hoạch hưu trí : DV này được thực hiện thông qua các Phòng uỷ thác của NH, thực hiện việc đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế . NH cũng đã thực hiện việc bán các kế hoạch hưu trí cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi chủ sở hữu các khoản tiền này cần đến .

- Cung cấp DV môi giới và đầu tư chứng khoán : Hiện nay, nhiều NH đang phấn đấu trở thành một “bách hoá tài chính” thực sự thông qua việc cung cấp đa dạng các DV tài chính cho phép KH thoả mãn mọi nhu cầu tại mọi thời điểm . Thông qua việc thực hiện DV này NH cung cấp cho KH các cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh khác mà không nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.

Như vậy không phải tất cả các NH đều cung cấp nhiều DV tài chính như danh mục vừa nêu ở trên .Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay nhiều loại hình cho vay và TK tiền gửi mới vẫn đang tiếp tục phát triển như các loại giao dịch qua Internet và qua hệ thống thẻ thông minh v.v... đã và đang mở ra một kỷ nguyên công nghệ trong hoạt động NH [78].

2.2. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại

2.2.1.1. Khái niệm huy động vốn

Hoạt động đầu tiên của loại hình NH sơ khai đó là giữ hộ tiền, thanh toán hộ cho KH và cho vay ngắn hạn dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, thì hoạt động NH cũng ngày càng phát triển để làm tròn các chức năng của chúng, trong đó, quan trọng nhất là thực thi chức trách của một trung gian tài chính nhằm chuyển hóa các nguồn vốn nhỏ lẻ, tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể kinh tế tạm thời “thừa vốn” sang các chủ thể kinh tế “tạm thời” thiếu vốn cho SXKD hoặc tiêu dùng. Với việc thực thi chức năng này, NHTM là cầu nối quan trọng giữa những


người cho vay và đi vay, đồng thời, làm hạn chế TD trực tiếp.

Là một loại hình “DN đặc biệt”, để tiến hành hoạt động kinh doanh, thì cũng giống như các loại hình DN khác, các NHTM cũng cần phải có một lượng vốn tự có nhất định. Tuy vậy, khác với các loại hình DN khác, vốn tự có của các NHTM thường rất nhỏ (theo qui định của Basel II thì vốn chủ sở hữu ít nhất phải bằng 8% so tổng tài sản Có của NH. Còn tại Việt Nam, theo qui định tại Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 thì vốn chủ sở hữu tối thiểu phải ở mức 9% so tổng tài sản Có qui đổi theo mức độ rủi ro của NHTM). Với tỷ lệ nhỏ như vậy thì có thể nói hầu như vốn chủ sở hữu của các NHTM chỉ để để sử dụng cho việc đầu tư vào các tài sản cố định là chính, cũng có nghĩa là, vốn để cho vay và đầu tư ở NHTM hoàn toàn phụ thuộc vào vốn huy động. Từ đó có thể thấy rằng, vốn huy động là nhân tố “đầu vào” có tính quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM, điều đó cũng có nghĩa là hoạt động HĐV sẽ có ảnh hưởng có tính quyết định đến các hoạt động kinh doanh của NHTM. Hơn nữa, khác với các tổ chức khác, với tư cách của một trung gian trên thị trường tài chính, các NHTM chỉ HĐV bằng tiền nhằm phục vụ cho các hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính là chủ yếu.

Vậy HĐV là gì?. Hiện nay, quan niệm về HĐV có thể được tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Cụ thể:

Nếu nhìn từ góc độ quản lý, có thể hiểu: HĐV trong các NHTM là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm soát hoạt động HĐV nhằm đạt mục tiêu đề ra.

Nếu nhìn từ góc độ nghiệp vụ huy động, có thể hiểu: HĐV của NHTM là việc NHTM thông qua các phương pháp khác nhau, bằng việc sử dụng các công cụ khác nhau để HĐV tiền tệ trong nền kinh tế.

Một cách chung nhất có thể hiểu: Huy động vốn của NHTM là việc


NHTM thông qua công tác lập kế hoạch, lựa chọn sử dụng các phương thức và các công cụ khác nhau để tập trung các nguồn tiền tệ trong nền kinh tế cũng như việc tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm soát công tác HĐV nhằm đạt được mục tiêu đặt ra.

HĐV không tách rời chủ thể quản lý:

(i) Chủ thể quản lý HĐV trong NHTM là Hội đồng thành viên (hoặc Hội đồng quản trị), Tổng giám đốc, Giám đốc và lãnh đạo các chi nhánh;

(ii) Đối tượng là quản lý HĐV;

(iii) Mục tiêu quản lý HĐV là đáp ứng được nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh của NH, đảm bảo an toàn thanh khoản và hiệu quả kinh doanh của NH.

Bên cạnh đó, các NHTM có hệ thống ban kiểm tra, kiểm soát nội bộ thường xuyên kiểm tra về tình hình thực hiện các quy định của NHTW, của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh.

Mục tiêu chính của công tác HĐV của NHTM là:

(i) Tìm kiếm nguồn vốn “rẻ”

Chi phí trả lãi thường là hạng mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi phí hoạt động của NHTM, trong đó, trả lãi cho huy động tiền gửi có kỳ hạn, trái phiếu và kỳ phiếu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi phí trả lãi của NH. Chính vì thế, quản lý chi phí trả lãi luôn là hoạt động thường xuyên và quan trọng nhất của NHTM. Bất cứ một sự thay đổi nào về LS và cơ cấu nguồn vốn đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, qua đó, sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của NHTM. Xuất phát từ thực tế này, các NHTM sẽ phải tính toán chi phí của từng nguồn vốn cụ thể, từ đó, cho phép nhà quản trị của NHTM xác định những nguồn vốn nào “rẻ” hơn, có nên thay đổi LS huy động nguồn hay không và nếu có thay đổi thì những thu nhập từ tài sản tăng thêm có đủ bù đắp chi phí huy động nguồn tăng thêm hay không? Xét về nguyên lý thì các nguồn vốn có kỳ hạn càng ngắn thì tính chất ổn định của chúng càng kém, và


do vậy, chi phí huy động nguồn cũng sẽ phải “rẻ” hơn.

(ii) Tạo ra nguồn vốn ổn định với cơ cấu hợp lý

Về nguyên tắc, cơ cấu nguồn vốn huy động phải căn cứ theo cơ cấu cho vay và đầu tư của NHTM. Cơ cấu cho vay và đầu tư càng đa dạng, thì cơ cấu nguồn vốn huy động cũng càng cần có sự đang dạng để tránh những rủi ro kỳ hạn. Với một cơ cấu huy động nguồn vốn hợp lý sẽ giúp NHTM tránh được các căng thẳng về tài chính trong điều kiện môi trường kinh doanh có sự biến động phức tạp.

(iii) Giúp xác lập qui mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động ổn định

Qui mô nguồn vốn huy động phải phù hợp với qui mô hoạt động kinh doanh của NH, có nghĩa là qui mô hoạt động kinh doanh của NH càng lớn, thì nguồn vốn huy động cũng cần có sự tăng lên về qui mô cho phù hợp. Tuy vậy, việc xác định qui mô huy động nguồn như thế nào là phù hợp là tương đối khó khăn, đòi hỏi phải đặt trong từng tình huống cụ thể của môi trường kinh doanh cũng như công tác dự báo trong tương lai. Chẳng hạn: Nếu như môi trường kinh doanh diễn biến phức tạp, thì đòi hỏi NHTM phải tăng qui mô nguồn vốn huy động để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, NHTM có uy tín và thương hiệu chưa cao trên thị trường tài chính thì cũng đòi hỏi phải duy trì dự trữ thanh khoản lớn hơn và vì vậy đòi hỏi NH phải tăng cường HĐV. Việc xác lập qui mô và tốc độ tăng trưởng huy động nguồn của NHTM đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố về LS, chính sách marketing, các hình thức huy động nguồn... trên cơ sở phải bảo đảm tính ổn định của nguồn huy động trong bất cứ tình huống nào, kể cả trong hiện tại và tương lai. Đây là yêu cầu bắt buộc mà NHTM phải hướng tới.

2.2.1.2. Đặc điểm huy động vốn của ngân hàng thương mại

Cũng giống như bất cứ tổ chức kinh tế nào, các NHTM muốn triển khai các hoạt động kinh doanh của mình thì phải có vốn, vốn kinh doanh bao gồm


vốn tự có và vốn vay. Để có thể vay được vốn từ các KH có tiền nhàn rỗi thì người đi vay cho dù là các tổ chức kinh tế phi NH hay là NHTM, đều phải chứng minh được uy tín của mình, đặc biệt là uy tín về tài chính để bảo đảm khả năng trả nợ vay đối với người cho vay

Tuy vậy, khác với hầu hết các tổ chức kinh tế khác thì HĐV của các NHTM có một số khác biệt:

Thứ nhất, Nếu như các tổ chức kinh tế khác muốn được cấp phép hoạt động thì yêu cầu về vốn chủ sở hữu luôn rất cao, thường phải đáp ứng trên 50% tổng nhu cầu vốn hoạt động, thì đối với các NHTM, yêu cầu về vốn chủ sở hữu thường thấp hơn nhiều, chỉ ở mức khoảng 8% tổng tài sản có được qui đổi theo mức rủi ro (theo qui định của Basel). Hay nói cách khác, với tư cách của một trung gian trên thị trường tài chính, các NHTM căn bản đi vay để thực hiện các hoạt động cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khác. Chính vì vậy, các NHTM đều phải rất chú trọng hoạt động HĐV. Hơn nữa, với tư cách của một tổ chức hoạt động có tính chuyên nghiệp cao trên thị trường tài chính, hầu hết nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường tài chính được các NHTM huy động để từ đó luân chuyển các nguồn vốn này tới các kênh đầu tư khác trong nền kinh tế. Do vậy, hiệu quả của công tác HĐV của NHTM có tính quyết định hiệu quả sử dụng nguồn vốn tiền tệ trong nền kinh tế.

Thứ hai, Các NHTM có thể thông qua nhiều biện pháp và công cụ khác nhau để HĐV. Đây là điểm khác biệt mà các tổ chức kinh tế khác không thể có. Chẳng hạn NHTM có thể HĐV tiết kiệm ở tất cả các kỳ hạn (trong khi luật pháp cấm các tổ chức kinh tế phi NH không được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn, lý do là bởi hoạt động này có thể tạo tiền). NHTM cũng có thể HĐV thông qua phát hành chứng khoán, khi ấy, NHTM sẽ chịu sự kiểm soát chi phối của cả Ủy ban Chứng khoán Nhà nước lẫn từ phía NHTW (trong khi các tổ chức khác khi phát hành chứng khoán để HĐV chỉ chịu sự kiểm soát


duy nhất từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước). NHTM cũng có thể HĐV thông qua đi vay từ các tổ chức tài chính khác trên thị trường liên NH (trong khi hầu hết các tổ chức tài chính phi NH hiếm khi được phép tham dự vào thị trường này). NHTM cũng có thể HĐV thông qua đi vay từ NHTW (trong khi tất cả các tổ chức phi NH khác không được vay từ nguồn này).

Thứ ba, NHTM thiết lập mạng lưới chi nhánh rộng khắp để HĐV và cung cấp các dịch vụ tài chính đối với các KH trong nền kinh tế. Đặc điểm này xuất phát từ chính đặc điểm hoạt động kinh doanh NH là cung cấp các sản phẩm tài chính đa dạng cho tất cả các KH trong nền kinh tế và để đạt được yêu cầu này thì đòi hỏi NHTM phải tiến gần nhất tới các KH mục tiêu thông qua thiết lập mạng lưới chi nhánh rộng khắp (có thể là mạng lưới hữu hình hoặc là mạng lưới vô hình thông qua sự rợ giúp của công nghệ thông tin hiện đại), chính điều này giúp các NHTM có thể giảm tiểu được chi phí huy động nguồn trong khi hầu hết các tổ chức khác khó có thể thiết lập được một mạng lưới chi nhánh bao trùm cả nước để HĐV do chi phí huy động nguồn gia tăng làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh.

2.2.1.3. Vai trò huy động vốn của ngân hàng thương mại

* Vai trò đối với nền kinh tế

Huy động vốn góp phần huy động tập trung nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, qua đó phát huy hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ trong nền kinh tế

Do tính chất chu kỳ của SXKD cũng như tồn tại khoảng cách nhất định giữa thu nhập và tiêu dùng, nên trong nền kinh tế luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi. Qui mô của lượng tiền này lớn hay nhỏ phụ thuộc vào qui mô và sự phát triển của nền kinh tế cũng như mức thu nhập của dân chúng. Hầu hết lượng tiền này ở dạng “tạm thời nhàn rỗi” do tính chất chu kỳ trong SXKD hoặc dân chúng chưa tìm kiếm được cơ hội đầu tư sinh lợi và điều này


cũng có nghĩa là có một lượng vốn tiền tệ nhất định trong nền kinh tế đang bị loại khỏi chu kỳ SXKD, điều này gây ra sự lãng phí nguồn lực cho xã hội. Nhưng bất cập này sẽ được khắc phục khi các NHTM, với tư cách của một trung gian tài chính, đứng ra huy động tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, chuyển chúng tới các địa chỉ cần vốn trong nền kinh tế thông qua các hoạt động cho vay và đầu tư, qua đó phát huy hiệu quả của nguồn vốn tiền tệ này. Công tác HĐV của các NHTM càng hiệu quả, thì hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ trong nền kinh tế sẽ càng cao. Nhưng muốn công tác HĐV của NHTM đạt hiệu quả theo kỳ vọng thì các nội dung HĐV phải được đề cao.

* Vai trò đối với khách hàng

Huy động vốn góp phần đáp ứng vốn cho nhu cầu đầu tư phát triển của các DN, tổ chức

Vốn là nhân tố có tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế và để thúc đẩy sự phát triển kinh tế thì trước hết phải tăng cường vốn đầu tư. Về nguyên tắc, vốn đầu tư chủ yếu được hình thành từ vốn tự có của DN, tổ chức: Đây là nguồn vốn chủ đạo trong hoạt động đầu tư phát triển. Tuy vậy, trong thực tế, hầu như các DN không đủ vốn để thực hiện các dự án đầu tư và để bù đắp cho số vốn thiếu hụt thì các DN có thể huy động từ các nguồn vốn khác, chẳng hạn thông qua phát hành chứng khoán, nhưng việc HĐV vay thông qua kênh này thường không thuận lợi do luôn chịu sự kiểm soát rất chặt chẽ của Ủy ban Chứng khoán; hơn nữa, việc các DN có huy động được nguồn vốn thông qua phát hành chứng khoán hay không còn tùy thuộc vào sự phát triển của thị trường chứng khoán. Vì vậy, cách thông dụng nhất là các DN đi vay vốn từ các NHTM. Có thể nói rằng hầu hết các nhu cầu vốn tạm thời thiếu hụt trong đầu tư và kinh doanh của các DN, tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế đều được các NHTM đáp ứng. Do hoạt động có tính chuyên

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí