Nguyên Nhân Từ Phía Các Doanh Nghiệp Xuất Nhập Khẩu.

sát của Ngân hàng Nhà nước. Ví dụ như cơ chế quản lý và cấp phép cho các dịch vụ ngân hàng chưa phù hợp với sự thay đổi của thị trường dịch vụ ngân hàng đang được tự do hoá theo lộ trình cam kết. Hiện tại cơ chế quản lý và cấp phép đối với việc cung cấp dịch vụ ngân hàng của các tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước thực hiện theo hai cách:

- Quy định về loại hình dịch vụ được phép cung cấp trong giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng

- Cho phép cung cấp dịch vụ ngân hàng cụ thể theo quy định tại các quy chế về từng nghiệp vụ ngân hàng cụ thể.

Cơ chế này tỏ ra không phù hợp với tính năng động trong hoạt động cung cấp dịch vụ của các ngân hàng và yêu cầu quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước. Bất cập ở chỗ: giấy phép thành lập và hoạt động của ngân hàng không thể cập nhật các loại hình dịch vụ mà ngân hàng được phép thực hiện theo các quy chế nghiệp vụ cụ thể được ban hành sau khi giấy phép được cấp. Từ đó dẫn đến tình trạng là các ngân hàng vẫn được thực hiện cả các nghiệp vụ không được quy định trong giấy phép do vậy gây khó khăn cho ngân hàng khi triển khai các dịch vụ không được quy định trong giấy phép và làm giảm hiệu lực pháp lý của giấy phép. Cơ chế quản lý hiện hành cũng đòi hỏi các ngân hàng phải xin phép Ngân hàng Nhà nước từng lần khi muốn cung cấp một dịch vụ mới. Điều này cũng làm ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Bên cạnh đó còn một hạn chế nữa là các văn bản quy định về công tác xuất nhập khẩu, thuế quan, hải quan của Việt Nam chưa ổn định, thay đổi liên tục đã gián tiếp làm ảnh hưởng đến hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu. Ví dụ như, L/C nhập hàng đã được mở, doanh nghiệp đã xây dựng phương án kinh doanh và ngân hàng đã thẩm định trên cơ sở biểu thuế ban hành, khả năng tiêu thụ theo mức thuế đó nhưng bất ngờ Nhà nước thay đổi thuế nhập khẩu mặt hàng đó (giả sử tăng lên) thì rõ ràng khi hàng về, bán theo mức giá đã định sẽ bị lỗ vì thuế tăng mà bán giá cao thì sẽ không tiêu thụ được. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của khách hàng và trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả khoản vay của ngân hàng. Khi hàng về luôn có tình trạng khách hàng đề nghị ngân hàng cố gắng từ chối hoặc trì

hoãn thanh toán khiến cho mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng xấu đi nếu ngân hàng không làm theo yêu cầu và ảnh hưởng đến uy tín, gây rủi ro cho ngân hàng nếu làm theo ý của khách hàng chẳng hạn như có thể bị các ngân hàng nước ngoài kiện...

3.1.2. Môi trường kinh doanh:

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tài chính, giữa các ngân hàng trong và ngoài nước đã và đang gây ra không ít khó khăn cho hoạt động của BIDV. Sự mở rộng cả về số lượng và chất lượng của các ngân hàng như sự ra đời của một loạt ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài,... cũng như sự phát triển của các loại hình dịch vụ ngân hàng khiến cho tính cạnh tranh càng thêm gay gắt. Các ngân hàng đã và đang thực thi nhiều biện pháp nhằm thu hút khách hàng, thúc đẩy tăng trưởng như đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, hiện đại hoá ngân hàng...Các ngân hàng đều nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu trong bối cảnh đất nước đang hội nhập ngày càng sâu sắc hơn vào nền kinh tế quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động ngoại thương. Rõ ràng, với một quốc gia đang phát triển với tốc độ nhanh như Việt Nam thì hoạt động tài trợ ngoại thương là một lĩnh vực hứa hẹn nhiều tiềm năng. Chính vì vậy, không chỉ riêng BIDV chú trọng phát triển hoạt động này mà nhiều ngân hàng khác cũng đang tập trung đa dạng hoá các loại hình tài trợ xuất nhập khẩu.

Bên cạnh sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các ngân hàng trong nước, điều đáng lo ngại hơn là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong một cuộc khảo sát mới đây của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra con số bất ngờ: 42% doanh nghiệp và 50% dân chúng được hỏi đều trả lời rằng họ sẽ lựa chọn vay ở các ngân hàng nước ngoài hơn là các ngân hàng trong nước khi chúng ta mở cửa thị trường tài chính. Lý do là các ngân hàng này có tính chuyên nghiệp cao hơn, thủ tục đơn giản hơn, dịch vụ tốt hơn và mức độ tin cậy cao hơn. Vấn đề này rất đáng lo ngại và cần sự quan tâm đúng mức của các ngân hàng trong nước nói chung, của BIDV nói riêng.

BIDV mới triển khai hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu từ năm 1995 trở lại đây do vậy hoạt động này ở BIDV còn tương đối mới mẻ, ngân hàng còn nhiều bỡ ngỡ và thiếu kinh nghiệm. Trong suốt 37 năm kể từ khi thành lập vào năm 1957 đến năm 1994 các hoạt động của BIDV hết sức nghèo nàn, chưa phát huy hết tiềm năng của một ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu cả nước. Hoạt động của BIDV chủ yếu tập trung vào việc cấp phát cho vay, quản lý vốn kiến thiết cơ bản thuộc Ngân sách cho các dự án. Chỉ từ năm 1995 trở lại đây, BIDV mới có nhiều khởi sắc trong hoạt động kinh doanh của mình. BIDV nỗ lực không ngừng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước thông qua chương trình kích cầu, chương trình xuất khẩu, chương trình phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu dịch vụ,... tăng thêm nhiều tiện ích, sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Cũng trong giai đoạn phát triển này, BIDV đã nhận thức được vai trò của hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.

Trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được coi là ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực này với nhiều lợi thế cạnh tranh hơn rất nhiều so với các ngân hàng khác, kể cả BIDV. Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu đã được ngân hàng Ngoại thương triển khai ngay từ những ngày đầu thành lập và được coi là lĩnh vực hoạt động then chốt. Chính vì vậy, khi nghĩ đến cho vay để phát triển ngoại thương người ta thường nghĩ ngay đến Ngân hàng Ngoại thương.

Một vấn đề quan trọng khác là đặc thù của hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn của thị trường và môi trường kinh tế trong và ngoài nước. Trong thời gian gần đây tình hình tỷ giá ngoại tệ, giá vàng, giá bất động sản có nhiều biến động mạnh, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc đưa ra các quyết định tín dụng. Trong khi đó ở Việt Nam chưa có một thị trường ngoại hối hoàn chỉnh, chỉ mới ở dạng sơ khai là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Hoạt động trên thị trường liên ngân hàng diễn ra theo một chiều, khi ngoại tệ dư thừa thì ngân hàng nào cũng chào bán, đến khi khan hiếm thì chào mua... dẫn đến tình trạng khi tỷ giá biến động hoặc tập trung nhiều nghiệp vụ thanh toán thì nguồn ngoại tệ rất hạn chế. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường chưa phát

triển, chỉ chủ yếu dừng ở giao dịch mua bán giao ngay, giao dịch kỳ hạn rất hạn chế nên gây khó khăn cho ngân hàng trong việc tính toán hiệu quả kinh doanh và tránh rủi ro tỷ giá.

3.1.3. Hạn chế về nguồn thông tin tín dụng.

Một hệ thống thông tin tín dụng (CIC) đã được Ngân hàng Nhà nước thành lập để phục vụ việc thu thập và cung cấp thông tin về các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam cho các tổ chức tín dụng nhằm phòng ngừa và hạn chế những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. CIC thực hiện việc thu thập, phân tích, lưu trữ, xếp loại doanh nghiệp trên toàn quốc đồng thời thay mặt Ngân hàng Nhà nước quan hệ với các cơ quan khác như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê, Tổng cục thuế... Tuy nhiên hiện nay hiệu quả hoạt động của CIC còn thấp, số liệu cung cấp thiếu tính cập nhật, thông tin còn chưa toàn diện, kịp thời và hệ thống.

Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại của nước ta còn rất hạn chế trong phối hợp hoạt động. Chính từ đó đã tạo khe hở cho nhiều doanh nghiệp lợi dụng vay vốn từ nhiều ngân hàng nhưng các ngân hàng lại không nắm được tình trạng đó. Kết quả là các khách hàng này với vị thế là “chủ thể” của rủi ro, hoàn toàn có thể chuyển sự rủi ro đó sang phía các ngân hàng.

3.1.4. Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

• Sự thiếu kinh nghiệm của các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đưa ra các số liệu thống kê cho thấy có tới 70% giám đốc doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương trong khi 80- 95% số doanh nghiệp đó tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc uỷ thác xuất nhập khẩu. Do sự thiếu hiểu biết, chưa có kinh nghiệm trong quan hệ thương mại với bạn hàng nước ngoài, nhiều khi ký hợp đồng với các điều khoản bất lợi dẫn đến hậu quả là không lập được bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C hoặc nếu xuất trình bộ chứng từ tới ngân hàng xin chiết khấu thì bộ chứng từ lại không hoàn hảo, rủi ro không được thanh toán là rất

cao và ngân hàng không chấp nhận chiết khấu. Ngoài ra, do sự chưa hoàn thiện của hệ thống luật pháp mà ngân hàng rất ngại chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất vì sau đó nếu xảy ra tranh chấp sẽ không có luật điều chỉnh quan hệ giữa ngân hàng và nhà xuất khẩu. Trong trường hợp nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ, BIDV thay vì chiết khấu bộ chứng từ sẽ chuyển sang cho vay tạm ứng đối với những khách hàng có L/C thông báo qua BIDV, thông thường khối lượng tài trợ là khoảng 70- 80% trị giá bộ chứng từ. BIDV chỉ chiết khấu đối với những L/C xuất khẩu những mặt hàng dễ đạt tiêu chuẩn quốc tế sang những thị trường quen thuộc.

Một vấn đề nữa đó là các doanh nghiệp Việt Nam do thiếu thông tin, thiếu mối quan hệ với đối tác nước ngoài nên không mua được hàng trực tiếp từ ngưới sản xuất hoặc nhà phân phối lớn mà phải ký hợp đồng với trung gian, mua bán vòng vèo, giá mua bị đẩy lên cao, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và tất nhiên cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng.

• Năng lực vay vốn của doanh nghiệp.

Một vấn đề vướng mắc của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam là vốn điều lệ của họ rất thấp. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì các ngân hàng thương mại không được phép cho vay quá 15% vốn tự có của ngân hàng trong khi nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp cho các hoạt động kinh doanh của mình (trong đó gồm cả kinh doanh xuất nhập khẩu) lại chiếm 70- 80% tổng số vốn cần thiết.

Xét về phía các doanh nghiệp Nhà nước, vốn lưu động được giao không đáng kể, tài sản cố định tập trung lớn nhất là đất đai nhưng chủ yếu là dưới hình thức thuê, do đó theo quy định của Luật đất đai năm 2003 thì chỉ được thế chấp cầm cố giá trị tài sản trên đất. Các tài sản trên đất của các doanh nghiệp Nhà nước nếu không là các máy móc nhà xưởng đã cũ thì cũng hình thành từ vốn vay ngân hàng đối với các tài sản mới đầu tư. Do vậy, đến nay hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước có quan hệ tín dụng xuất nhập khẩu với BIDV không đảm bảo được chỉ tiêu về tài sản đảm bảo dẫn đến việc không thể tăng thêm quy mô tín dụng.

Xét về phía các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì hầu hết đều có tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng nguồn vốn lớn. Tuy nhiên, đó chỉ là sự so sánh về tỷ lệ còn nếu là số tuyệt đối thì ngay cả những công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn lớn nhất hiện nay cũng chỉ có số vốn chủ sở hữu khiêm tốn, do đó khi muốn thực hiện các thương vụ lớn thì vấn đề tài sản đảm bảo nợ vay luôn là một bài toán khó đối với cả ngân hàng và doanh nghiệp.

Mức vốn của các doanh nghiệp khá thấp và nhỏ lẻ. Hiện nay vốn trung bình của các doanh nghiệp Nhà nước mới đạt 55 tỷ đồng/doanh nghiệp, trong khi đó số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng vẫn chiếm tới 40%. Một lượng lớn vốn hỗ trợ từ Nhà nước lại phân bổ không đều, tập trung chủ yếu vào các tổng công ty Nhà nước.

3.2. Nguyên nhân chủ quan.

3.2.1. Nguồn vốn của BIDV còn hạn chế.

Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm: vốn tự có (vốn điều lệ) và vốn đi vay. Vốn điều lệ của ngân hàng là cơ sở để bù đắp rủi ro, là điều kiện để đảm bảo an toàn, tạo uy tín cho ngân hàng và lòng tin của khách hàng. Để có thể đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu thì đòi hỏi ngân hàng phải có một nguồn vốn dồi dào. Tuy nhiên, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và BIDV nói riêng còn nhỏ bé làm hạn chế khả năng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Theo thông lệ quốc tế để đánh giá khả năng an toàn trong hoạt động của ngân hàng thì tỷ trọng vốn tự có so với tổng tài sản có tối thiểu là 8%.

Trong thời gian qua, đặc biệt là năm 2006, BIDV đã chú trọng thực thi các chính sách lành mạnh hoá tài chính và củng cố bảng tổng kết tài sản, tăng cường tính minh bạch trong các báo cáo tài chính chính thức. Tuy nhiên, một số chỉ số tài chính cơ bản còn chưa đạt tới chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng. Tính đến ngày 31/12/2006 tổng vốn chủ sở hữu của ngân hàng theo VAS là 7.626 tỷ VND tăng 14,4% so với năm 2005, theo chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS là 4.501 tỷ VND tăng 30% so với năm 2005.[5]

Vào tháng 5/2006, BIDV đã chính thức được Moody’s – tổ chức định hạng quốc tế hàng đầu trên thế giới xếp hạng ở các mức: E- triển vọng tích cực (xếp hạng năng lực tài chính độc lập – BFRS), Ba1/B1 (xếp hạng tiền gửi nôi tệ/ ngoại tệ) và Ba1/Ba2 (xếp hạng nhà phát hành nội tệ/ ngoại tệ) cho năm tài chính 2005. Đây đều là các mức xếp hạng kịch trần quốc gia. Với sự kiện này, BIDV trở thành ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam tham gia tổ chức định hạng toàn cầu, qua đó khẳng định cam kết minh bạch hoá tài chính và áp dụng các chuẩn mực quốc tế.

Đến tháng 4/2007, Moody’s đã nâng mức xếp hạng năng lực tài chính độc lập của BIDV từ E lên E+ với triển vọng ổn định. Việc nâng mức xếp hạng này thể hiện năng lực tài chính của BIDV đang được cải thiện, đặc biệt là khả năng nâng cao vốn và việc giảm đáng kể nợ xấu và chiến lược kinh doanh tạo sự khác biệt so với các ngân hàng trong ngành.


Bảng 2.8: Hệ số an toàn vốn (CAR)


Chỉ tiêu

31/12/2005

31/12/2006

Vốn tự có(VND)

6.499

10.838

Vốn cấp 1

6.411

7.489

Vốn cấp 2

124

3.524

Chỉ số CAR(%)- VAS

6,86%

9,1%

Chỉ số CAR(%)- IFRS

3,36%

5,9%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 9

(Nguồn: Báo cáo thường niên 2006- BIDV)

Trong năm 2006, tỷ lệ an toàn vốn CAR của BIDV được cải thiện đáng kể tuy nhiên mức tăng này còn quá nhỏ và tỷ lệ 5,9% vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với yêu cầu 8%.

3.2.2. Cơ cấu khách hàng còn chưa hợp lý.

Hiện nay, hầu hết dư nợ tài trợ xuất nhập khẩu của BIDV tập trung vào nhóm khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước. Dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu

của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ. Đây là một thực trạng chung không chỉ ở BIDV mà còn ở rất nhiều ngân hàng thương mại khác. Các ngân hàng thương mại Nhà nước chuyển hướng sang cho vay nhiều vào các Tổng công ty Nhà nước mà thực lực tài chính rất yếu kém, với mức dư nợ tới 35- 40% vào nhóm khách hàng đang báo động “đỏ” về chất lượng tín dụng. Trong đó điển hình là các tổng công ty thuộc ngành xây dựng, giao thông vận tải mà theo báo cáo của Bộ tài chính có tới trên 90% khoản nợ nói trên thuộc vốn vay của các ngân hàng thương mại.

Trong thời gian tới, các ngân hàng thương mại có thể sẽ bị cuốn theo hội chứng đầu tư vốn vào các tập đoàn kinh tế mà về bản chất, ai cũng biết phần lớn sự ra đời của các tập đoàn này là theo các quyết định hành chính. Trong khi không ít doanh nghiệp dân doanh đã có những bước tiến triển mạnh mẽ, làm ăn thật sự bài bản nhưng vẫn khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng. Hơn thế, ngân hàng cũng đã bỏ qua một lượng lớn khách hàng trong khu vực kinh tế tư nhân đang chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế.

Chính tình trạng trên đã mang lại cho BIDV nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung một rủi ro lớn về chất lượng tín dụng, tăng tỷ lệ nợ xấu, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nếu không có những biện pháp kịp thời.

3.2.3. Các sản phẩm tài trợ xuất nhập khẩu của BIDV còn chưa phong phú, chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Nghiệp vụ Factoring đã và đang được áp dụng ở nhiều quốc gia có nền tài chính tiền tệ phát triển. Năm 2001 số lượng công ty Factoring ở Mỹ là 262, ở Anh là 96, ở Thái Lan là 20. Năm 2003 toàn cầu đã đạt 712 tỷ euro doanh số nghiệp vụ bao thanh toán trong nước và 48 tỷ euro doanh số bao thanh toán xuất nhập khẩu. Trong khi đó ở Việt Nam Factoring mới chỉ được nhắc đến mà chưa được triển khai cho dù ngày 6/9/2004 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 1096/2004/QĐ- NHNN về nghiệp vụ bao thanh toán.

Trên thực tế ở Việt Nam đang tiềm tàng một nhu cầu rất lớn đối với Factoring quốc tế: môi trường kinh doanh tương đối ổn định, các nguồn tài trợ

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 09/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí