Phương Hướng Đẩy Mạnh Hoạt Động Tín Dụng Tài Trợ Xuất Nhập Khẩu Trong Những Năm Tới Của Bidv.

Trong 6 tháng đầu năm 2007, nền kinh tế nước ta vẫn trên đà phát triển nhanh, chất lượng tăng trưởng của một số ngành và lĩnh vực tiếp tục được cải thiện. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Những thành công của nền kinh tế nước ta đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương chính là tiền đề cho yêu cầu phát triển hơn nữa hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu. Càng phát triển với tốc độ nhanh thì nhu cầu về nguồn vốn càng lớn. Cho nên đòi hỏi phải có sự trợ giúp đắc lực của ngành ngân hàng với các sản phẩm tài trợ ngoại thương.

Bên cạnh đó, hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta cũng đạt được nhiều thành công. Từ giữa những năm1980 chúng ta đã bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế bằng việc mở cửa đầu tư trực tiếp nước ngoài và tự do hoá dần lĩnh vực ngoại thương. Việc Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như: IMF, WB, ADB; gia nhập ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) năm 1995, APEC (Diễn đàn kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương) năm 1998, ký kết hiệp định thương mại với Cộng đồng chung châu Âu 1995, Hiệp định song phương Việt- Mỹ có hiệu lực năm 2001, tổ chức thành công hội nghị cấp cao Á- Âu lần thứ 5 và đặc biệt thành công trong các vòng đàm phán để đưa Việt Nam gia nhập WTO cho thấy nước ta đã tiến được những bước dài trong hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế chung của thế giới. Chính những thành quả đó là nền tảng vững chắc thúc đẩy hoạt động ngoại thương của Việt Nam phát triển. Và khi đó tất yếu sẽ đưa đến sự tăng trưởng mạnh mẽ của hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu.

Hiệp định thương mại Việt- Mỹ ký ngày 13/7/2000 và có hiệu lực vào ngày10/12/2001 được đánh giá là “một hiệp định toàn diện, mở cửa thị trường của Việt Nam cho các hàng hoá và dịch vụ Mỹ, thúc đẩy cải cách và tự do hoá trong nước, gắn Việt Nam chặt chẽ hơn với nền kinh tế thế giới và tạo ra cơ sở cho Việt Nam gia nhập WTO” và trong thời gian tới việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội mới và cả những thách thức không thể tránh khỏi đối với một nền kinh tế còn nhỏ bé như nước ta hiện nay. Điều này giải thích tại sao số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương của nước ta trong những năm qua liên tục tăng.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh còn thấp, thiếu kiến thức về ngoại thương cũng như những kinh nghiệm cần thiết trong kinh doanh quốc tế. Đã có rất nhiều giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường. Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu và cũng là bài toán đang làm nhức nhối các doanh nghiệp nước ta đó là vấn đề vốn. Muốn kinh doanh thì tất nhiên phải có nguồn vốn song thực tế là hầu hết các doanh nghiệp nước ta khi thành lập đều có nguồn vốn eo hẹp cho nên muốn mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh là rất khó khi mà nền móng đã không được vững chắc. Kết quả tất yếu là các doanh nghiệp sẽ cần đến sự trợ giúp của các ngân hàng cả về tài chính cũng như uy tín. Nhu cầu tài trợ ngoại thương từ ngân hàng thương mại là vô cùng cấp thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi đất nước ngày càng mở rộng cửa hơn để đón các doanh nghiệp nước ngoài với nhiều công ty xuyên quốc gia ở nhiều nền kinh tế hàng đầu.

2.2. Tính tất yếu chủ quan.

Quá trình toàn cầu hoá mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN 5 diễn ra ở Bangkok, Việt Nam đã cam kết bước đầu thực hiện tự do hoá thương mại dịch vụ trong 7 lĩnh vực dịch vụ quan trọng: tài chính, viễn thông, vận tải hàng hoá, vận tải hàng không, du lịch, dịch vụ kinh doanh và dịch vụ xây dựng. Tại vòng đàm phán thứ nhất về dịch vụ của các nước ASEAN năm 1998, Việt Nam cam kết tự do hoá dịch vụ tài chính ngân hàng. Một số yêu cầu liên quan đến hoạt động ngân hàng mà nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) đã cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khung về Hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội ASEAN:

- Xây dựng môi trường pháp lý về ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Không hạn chế số lượng các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng.

- Không hạn chế về tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng.

- Không hạn chế về tổng các hoạt động tác nghiệp hay tổng số lượng dịch vụ ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

- Không hạn chế về tổng số người tuyển dụng của các tổ chức tài chính nước ngoài.

- Không có các biện pháp hạn chế hay yêu cầu phải mang một hình thức pháp nhân cụ thể nào.

Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 11

- Không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên nước ngoài dưới hình thức tỷ lệ phần trăm tối đa số cổ phiếu nước ngoài được nắm giữ theo nguyên tắc thoả thuận...

Đó mới chỉ là những nội dung ban đầu mà ngành ngân hàng Việt Nam phải thực hiện bắt đầu từ năm 2008.[13]

Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cũng đã, đang và sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng lớn của Mỹ thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Trong khi các ngân hàng Mỹ có kinh nghiệm trong các sản phẩm dịch vụ ngân hàng sẽ cung cấp tại Việt Nam thì các ngân hàng thương mại của ta còn nặng về nghiệp vụ truyền thống, các nghiệp vụ mới chậm được áp dụng nên hiệu quả kinh doanh thấp. Một loạt các nghiệp vụ mới chưa được thực hiện tại Việt Nam hoặc chưa có quy định điều chỉnh nhưng đã được cam kết tại Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cho phép các tổ chức tín dụng của Mỹ được thực hiện như quản lý hộ tài sản, bảo quản vật có giá, cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính, quản lý tiền mặt...

Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO khiến cho cánh cửa thị trường tài chính- tiền tệ của Việt Nam không chỉ rộng mở với các ngân hàng trong khu vực Đông Nam Á hay Hoa Kỳ mà toàn thế giới. Trước yêu cầu của hội nhập, ngành ngân hàng Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn:

- Khuôn khổ luật pháp điều chỉnh hoạt động ngân hàng nói chung còn mang nhiều dấu ấn của cơ chế mệnh lệnh hành chính và cơ chế xin- cho. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước còn bị giới hạn quá hẹp so với thông lệ quốc tế. Hoạt động ngân hàng theo luật hiện hành còn bị thu hút nhiều vào nhiệm vụ quản lý Nhà nước hơn là việc phát huy các thiên chức của ngân

hàng trung ương. Bộ máy, cấu trúc hệ thống còn mang đậm dấu ấn của cơ chế cũ, gắn chặt với địa giới hành chính. Luật về hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng không tương đồng với luật pháp về ngân hàng trên thế giới.

- Cấu trúc hệ thống ngân hàng tuy phát triển mạnh mẽ về chiều rộng (cả ở khu vực quản lý lẫn khu vực kinh doanh) nhưng còn quá công kềnh, dàn trải, chưa dựa trên mô hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn ở mức kém xa so với khu vực.

- Nhiều công cụ chính sách tiền tệ còn chưa đủ môi trường để phát huy tác dụng: Công cụ tái cấp vốn của thị trường mở, công cụ lãi suất và tỷ giá chưa có thị trường tiền tệ thứ cấp phát triển hỗ trợ. Cơ chế quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá còn bất cập.

- Mô hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay vẫn mang tính độc canh tín dụng. Sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như: quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ...

- Hoạt động thanh toán còn mang tính chất phân tán cục bộ theo từng ngân hàng thương mại hoặc từng định chế tài chính phi ngân hàng do thiếu một trung tâm thanh toán quốc gia, là nguyên nhân chủ yếu khiến cho nền kinh tế Việt Nam chưa thoát khỏi một nền kinh tế tiền mặt.

- Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn nhiều bất cập. Đặc biệt, còn coi nhẹ hoạt động nghiên cứu chiến lược và khoa học ứng dụng làm khoảng cách tụt hậu về công nghiệp ngân hàng của Việt Nam khá xa so với khu vực và quốc tế.

- Tổng tiềm lực tài chính của các ngân hàng nói chung còn quá nhỏ (vốn tự có thấp) đã hạn chế khả năng huy động và cung ứng tín dụng cho toàn bộ nền kinh tế. Dư nợ tín dụng mới đạt xung quanh 50% GDP, thấp xa so với mức 80% của các nước trong khu vực.

- Các chỉ số đánh giá về nợ quá hạn, về đảm bảo vốn an toàn, về tỷ trọng chi phí quản lý trong doanh số hoạt động... so với tiêu chuẩn quốc tế đều ở mức rất

thấp. Hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức dư nợ không sinh lời lớn hơn giới hạn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần. Khả năng thanh toán bình quân của các tổ chức tín dụng so với yêu cầu 100% chỉ mới đạt xấp xỉ 60%. Tỷ lệ sinh lời bình quân trên vốn tự có của các tổ chức tín dụng (ROE) chỉ đạt 6% so với mức 13- 15% của các ngân hàng thương mại của các nước trong khu vực ASEAN. Khoảng cách chênh lệch lãi suất bình quân giữa đầu vào và đầu ra trong hoạt động tín dụng ngày càng khép lại, hiện chỉ còn 0,15- 0,17%/tháng (các nước trong khu vực là 0,3- 0,4%/tháng).

- Công tác thanh tra giám sát mặc dù đã được chấn chỉnh nhiều nhưng hoạt động vẫn còn manh mún, bất cập so với sự phát triển. Hiện chưa có cơ chế thanh tra liên ngành giữa Ngân hàng- Tài chính- Bảo hiểm- Chứng khoán.‌

Đó là những thách thức của hội nhập mà các ngân hàng của Việt Nam nói chung và BIDV nói riêng đang phải đối mặt. Để nâng cao năng lực cạnh tranh đòi hỏi phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ và hoàn chỉnh từ nhiều phía. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là tự bản thân các ngân hàng phải tìm ra con đường đi cho riêng mình.

II. Phương hướng đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩutrong những năm tới của BIDV.

1. Phương hướng hoạt động của BIDV giai đoạn 2007- 2015.

1.1.Kế hoạch cổ phần hoá năm 2007.

Mục tiêu:

- Mục tiêu của chương trình cổ phần hoá BIDV là nhằm xây dựng BIDV trở thành một ngân hàng đa sở hữu, kinh doanh đa lĩnh vực, có vị thế hàng đầu tại Việt Nam, hoạt động theo thông lệ quốc tế, chất lượng ngang tầm với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á.

- Minh bạch hoá và nâng cao năng lực tài chính, giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu, thúc đẩy khả năng sinh lời, phát triển kinh doanh một cách bền vững;

- Tạo ra áp lực cải cách mạnh mẽ trong mọi hoạt động của BIDV, kiện toàn mô hình tổ chức, tạo ra cơ cấu quản trị điều hành hiệu quả, hiện đại hoá công

nghệ, phát triển nguồn nhân lực theo chuẩn mực khu vực và quốc tế để nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế.

Yêu cầu:

- Đa dạng hoá hình thức sở hữu nhằm nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả hoạt động.

- Xác định giá trị doanh nghiệp một cách đầy đủ, chính xác để đảm bảo lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người lao động.

- Quá trình cổ phần hoá được thực hiện công khai, minh bạch, có tính cạnh tranh cao, theo nguyên tắc thị trường, đồng thời đảm bảo diễn ra an toàn, không gây biến động tiêu cực đến hoạt động ngân hàng nói chung và của BIDV nói riêng

- Thu hút sự tham gia góp vốn, tận dụng kinh nghiệm quản lý, ứng dụng công nghệ, tiếp cận tiêu chuẩn kinh doanh hiện đại của một số cổ đông chiến lược nước ngoài cũng như huy động được vốn của các nhà đầu tư trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế.

- Hình thành nhóm chính sách động lực đối với người lao động thông qua các chính sách ưu tiên mua, nắm giữ cổ phiếu ưu đãi, quyền mua cổ phiếu; chính sách đãi ngộ, tiền lương, thu nhập; chính sách đào tạo và bồi dưỡng trình độ cho người lao động; chính sách thu hút nhân tài...

Hình thức, đối tượng mua cổ phần:

- Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại BIDV, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. Trong giai đoạn đầu, tỷ lệ cổ phần của Nhà nước chiếm 70% và đến giai đoạn hai, tỷ lệ cổ phần của Nhà nước sẽ giảm xuống nhưng không thấp hơn 51%.

- Các nhà đầu tư nước ngoài: tuân thủ quy định hiện hành về tỷ lệ tham gia góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp cổ phần. BIDV sẽ lựa chọn từ hai cổ đông nước ngoài trở lên, trong đó có một nhà đầu tư nước ngoài là cổ đông chiến lược.

- Các nhà đầu tư trong nước (pháp nhân và thể nhân): sở hữu phần vốn còn lại theo quy định của Nhà nước (sau khi tính toán xác định cụ thể tỷ lệ góp vốn

của Nhà nước và nhà đầu tư chiến lược nước ngoài). BIDV cũng cân nhắc đa dạng hoá các cổ đông lớn trong nước cũng như nước ngoài, xem xét thế mạnh của từng nhà đầu tư để tạo nên sức mạnh tổng hợp.

- Cổ phần hoá gắn với niêm yết trên thị trường chứng khoán trong và ngoài

nước.


Lộ trình cổ phần hoá và niêm yết:

• Lựa chọn tư vấn cổ phần hoá: quý II/2007

• Xây dựng phương án cổ phần hoá, xác định giá trị doanh nghiệp, lựa chọn

cổ đông chiến lược: quý III/2007

• Phát hành cổ phần lần đầu (IPO): quý IV/2007

• Niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam: trong 6 tháng đầu năm2008

• Tích cực hoàn thiện các điều kiện để niêm yết trên thị trường chứng khoán quốc tế vào thời gian thích hợp.

1.2.Mục tiêu phát triển giai đoạn 2007- 2015.

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), sau 10 năm đổi mới đặc biệt là sau 6 năm thực hiện Đề án cơ cấu lại, đã đạt được những thành tựu mang tính quyết định trong hoạt động ngân hàng thương mại theo cơ chế thị trường, nổi bật là việc tái cơ cấu mô hình tổ chức hoạt động, đổi mới nền tảng quản trị điều hành, minh bạch hoá tài chính, hướng các mặt hoạt động theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, trang bị một cách đồng bộ về hạ tầng và năng lực quản lý công nghệ thông tin...

Để chủ động hội nhập, việc xác định mô hình tổ chức hoạt động, chiến lược kinh doanh sau cổ phần hoá đang là một vấn đề cấp bách đặt ra đối với BIDV. Mô hình và chiến lược phát triển phải nhằm nục đích cao nhất là xây dựng BIDV trở thành một thực thể tài chính mạnh, đóng vai trò trụ cột trong hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam, hoạt động theo thông lệ quốc tế và góp phần hiệu quả trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Trên cơ sở đó, BIDV xác định sự

cần thiết phải xây dựng và phát triển thành một tập đoàn tài chính trong tương lai với các nội dung chính sau:

• Mục đích hoạt động:

Xây dựng ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành tập đoàn tài chính- ngân hàng đa sở hữu, kinh doanh đa năng, đa lĩnh vực với trụ cột là hoạt động ngân hàng kết hợp với các hoạt động đầu tư tài chính, bảo hiểm và chứng khoán; phấn đấu là một trong 15 tập đoàn tài chính hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á trước năm 2015.

• Tầm nhìn: “ Tập đoàn tài chính- ngân hàng hàng đầu Việt Nam hoạt động theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế”.

• Mười mục tiêu cụ thể cần ưu tiên trong giai đoạn 2008- 2015:

+ Xây dựng BIDV trở thành tập đoàn tài chính- ngân hàng hội nhập sâu rộng, mạnh mẽ với khả năng cạnh tranh cao trong khu vực và toàn cầu.

+ Đổi mới nền tảng quản trị doanh nghiệp theo mô hình công ty cổ phần đại chúng trên cơ sở tái cơ cấu toàn diện các mặt hoạt động kinh doanh.

+ Tăng cường tính minh bạch công khai trong hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin sau khi niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (kiểm toán, định hạng tín nhiệm, áp dụng hệ thống báo cáo tài chính theo cả hai chuẩn mực VAS và IFRS).

+ Tăng trưởng vượt trội quy mô tài sản và mạng lưới kênh phân phối đảm bảo chất lượng và khả năng sinh lời bền vững.

+ Áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất trong quản trị các lĩnh vực kinh doanh và cải thiện các chỉ số tài chính.

+Tăng cường năng lực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế để tạo cơ sở điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng an toàn, hiệu quả.

+ Phát triển mạnh hệ thống công nghệ thông tin để cung ứng các dịch vụ chất lượng cao đến khách hàng và đảm bảo nhu cầu thông tin quản lý của toàn hệ thống.

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 09/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí