Thực Trạng Các Thương Vụ M&a Giữa Các Nhtm Việt Nam Trong Giai Đoạn 2011-2015


Năm 2011

Việc lạm phát tăng mạnh lên mức 2 con số trong năm 2010 và hệ quả từ 2 gói kích cầu trong 2 năm 2009, 2010 đã tạo ra nguy cơ bùng phát lạm phát cao trong năm 2011. Mặc dù Chính Phủ và NHNN đã dự đoán trước được nguy cơ lạm phát tái bùng phát nhưng cũng không duy trì được lạm phát ở mức 1 con số với hậu quả quá nặng nề từ 2 năm trước đó, kết quả là lạm phát cả năm 2011 ở mức rất cao 18,58%, hàng loạt các doanh nghiệp bị phá sản (50.000 doanh nghiệp), thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán giảm mạnh, các tổ chức xếp hạng quốc tế như S&P hạ mức tín nhiệm của quốc gia Việt Nam từ BB xuống BB-. Bên cạnh những kết quả không tốt trên do hệ quả từ chính sách 2 năm trước đó, nhất là sai lầm năm 2010, chính sách và định hướng của Chính Phủ và NHNN về lĩnh vực tài chính – ngân hàng trong năm 2011 cũng có những nét nổi bật như sau: chính thức có hiệu lực của luật các TCTD và luật NHNN (tạo cơ sở pháp lý để nâng cao một bước trách nhiệm, thẩm quyền và tính chủ động của NHNN trong điều hành chính sách), xây dựng đề án về “tái cơ cấu các TCTD giai đoạn 2011-2015” với 4 mục tiêu cơ bản: Một là, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng; Hai là, xây dựng hệ thống ngân hàng có đủ sức cạnh tranh trong và ngoài nước; Ba là, cấu trúc lại cơ cấu hoạt động của hệ thống ngân hàng để bảo đảm cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế một cách hợp lý; Bốn là, hệ thống ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam. Ngoài ra, lần đầu tiên vấn đề minh bạch hóa thông tin về hoạt động ngân hàng được chính thức đề cập tại điều 37 luật NHNN và Thông tư số 35/2011/TT-NHNN quy định việc công bố và cung cấp thông tin của NHNN Việt Nam.

Giai đoạn 2012-2015

Định hướng và các chính sách của Chính Phủ và NHNN ban hành trong giai đoạn 2012-2015 tập trung chính vào việc thực hiện đề án 254 về “Tái cơ cấu lại TCTD giai đoạn 2011-2015”. Với tình trạng hệ thống ngân hàng Việt Nam vừa yếu lại vừa thiếu về rất nhiều mặt cùng với những lo ngại về mất lòng tin của người dân vào hệ thống ngân hàng Việt Nam như hiện nay thì thực tế Chính Phủ và NHNN


không thể mạnh tay trong việc thực hiện đề án 254. Do đó, Chính Phủ và NHNN đã quyết định chia quá trình tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam thành các giai đoạn nhỏ, cụ thể:

Trong năm 2012 là củng cố lại hệ thống ngân hàng thông qua việc giải quyết các vấn đề về thanh khoản trong các ngân hàng, xử lý các ngân hàng yếu kém, tiến hành tái cơ cấu bắt buộc đối với toàn bộ các ngân hàng, nhất là các ngân hàng nhỏ đang có vấn đề về hoạt động.

Tiếp đến trong năm 2013, Chính Phủ và NHNN chỉ đạo tập trung chính vào việc xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng (thành lập công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam- VAMC, ban hành các chương trình hỗ trợ bù lãi suất cho vay mua nhà ở xã hội, ban hành Quyết định 780 cho phép các ngân hàng giãn nợ, giảm lãi suất mà không phải hạ nhóm và việc kéo dài thời gian thực hiện Thông tư 02 thêm 1 năm, ban hành Công văn 7558 về việc NHNN đề xuất giải pháp “cho vay mới để hoàn nợ cũ” với các ngân hàng nhằm giúp giải quyết khó khăn của các doanh nghiệp …), xử lý dứt điểm các ngân hàng trong diện bắt buộc tái cơ cấu (ban hành Quyết định số 48/2013/QĐ-TTg về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt).

Tiếp nữa trong năm 2014, mục tiêu trọng tâm của NHNN là tiếp tục đẩy mạnh xử lý nợ xấu, ban hành thông tư 02 về phân loại và trích lập dự phòng rủi ro theo một số điểm trong chuẩn mực Basel II, xử lý các vấn đề sở hữu chéo đã tồn tại rất lâu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam (ban hành Thông tư số 36/2014/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài thay thế Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, ban hành Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg về một số nội dung thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán của doanh nghiệp nhà nước, trong đó có quy định về việc các doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện thoái vốn đầu tư tại các TCTD), tiếp tục khuyến khích các NHTM Việt Nam tiến hành M&A với nhau hay tìm kiếm đối tác chiến lược nước ngoài hợp tác (ban hành Nghị định số 01/2014/NĐ-CP cho phép các TCTD Việt Nam được phép bán tối đa 20% cổ phần


mà không cần đề nghị lên Thủ tướng Chính phủ. Trong trường hợp đặc biệt, để thực hiện cơ cấu lại TCTD yếu kém, gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống TCTD, Thủ tướng Chính phủ quyết định tỷ lệ sở hữu cổ phần của một tổ chức, nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tại TCTD vượt quá giới hạn quy định).

Cuối cùng năm 2015, NHNN tập trung đẩy mạnh và quyết liệt trong việc xử lý các ngân hàng hoạt động yếu kém (thông qua việc mua lại 3 ngân hàng giá 0 đồng, bao gồm: Oceanbank, VNCB, GPBank; chỉ đạo tiến hành M&A với các ngân hàng mà NHNN nắm quyền kiểm soát như thương vụ BIDV với MHB, Vietinbank với PGBank và việc ban hành Nghị định 34/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 53 về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC và Thông tư 14 quy định thêm một số điều về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC, tạo điều kiện cho VAMC mua bán nợ xấu hiệu quả hơn), xử lý vấn đề sở hữu chéo (thông qua hoạt động M&A ngân hàng như trong thương vụ M&A giữa Sacombank với ngân hàng Phương Nam và Maritime bank với MDB và các văn bản như ban hành Thông tư 06/2015/TT-NHNN quy định thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với trường hợp sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định tại Điều 55 Luật Các TCTD).

Tóm lại:

Chính sách điều hành của Chính Phủ và NHNN trong giai đoạn 2011-2015 tập trung chủ yếu vào việc thi hành đề án 254 về “Tái cơ cấu các TCTD giai đoạn 2011- 2015” với 4 mục tiêu cơ bản là: lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân hàng có đủ sức cạnh tranh trong và ngoài nước, cấu trúc lại cơ cấu hoạt động của hệ thống ngân hàng, hệ thống ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh hệ thống ngân hàng Việt Nam phải cùng lúc xử lý nhiều vấn đề như: thanh khoản, nợ xấu, các ngân hàng yếu kém, nền kinh tế đang bất ổn và có mức độ rủi ro vĩ mô khá caothì việc quyết liệt đẩy mạnh thi hành đề án 254 ngay lập tức là không khả thi mà nên tiến hành từng bước một. Tổng kết từ các hành động của Chính Phủ và NHNN trong giai đoạn 2011-2015, ta có thể thấy rò được những bước đi thực tế của Chính Phủ và NHNN trong năm 2011-2015, bao gồm 2 giai đoạn nhỏ: giai đoạn 1 là giải


quyết vấn đề thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, nhất là với các ngân hàng nhỏ để tránh đổ vỡ hệ thống (2011-2013), giai đoạn 2 là xử lý các ngân hàng hoạt động yếu kém - chủ yếu liên quan đến vấn đề nợ xấu (2013-2015) và việc sở hữu chéo (năm 2015). Về cơ bản, những kết quả đạt được trong giai đoạn 2011-2015 như sau: Một là, đã giải quyết được vấn đề thanh khoản của các ngân hàng, tránh được nguy cơ đổ vỡ toàn hệ thống, ổn định được lòng tin của người dân vào hệ thống ngân hàng; hai là các NHTM Việt Nam đã có những bước đi mới trong quá trình tái cơ cấu lại hoạt động của mình thông qua việc tự tái cơ cấu hay tiến hành M&A với ngân hàng khác; ba là NHNN đã có những bước tiến mới trong việc ban hành các văn bản pháp luật, từng bước xây dựng, củng cố và hoàn thiện hành lang pháp lý cho phù hợp với tốc độ phát triển của hệ thống ngân hàng; bốn là cơ bản đã giải quyết được một phần nào đó trong vấn đề sở hữu chéo tràn lan trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Bên cạnh những kết quả đạt được trên, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn tồn tại nhiều vấn đề, bao gồm:

Một là, vấn đề nợ xấu. Nợ xấu theo công bố của các TCTD và của thanh tra, kiểm soát NHNN trong toàn hệ thống ngân hàng đều có sự giảm dần qua từng năm. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia tài chính - ngân hàng, vấn đề nợ xấu chỉ mới cải thiện về mặt số liệu thống kê do những điều chỉnh về mặt kỹ thuật (như thành lập công ty VAMC, ban hành Quyết định 780) nhưng thực tế vẫn chưa giải quyết được.

Hai là, vấn đề pháp luật. Chính Phủ và NHNN trong giai đoạn này tuy đã có những bước cải thiện đáng kể so với trước đây nhưng vẫn chưa theo kịp đà phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, điển hình trong việc hướng dẫn các vấn đề vềxử lý tài sản đảm bảo trong luật phá sản của các TCTD vàvăn bản hướng dẫn về các vấn đề liên quan đến hoạt động M&A dành riêng cho lĩnh vực ngân hàng.

Ba là, quá trình tái cơ cấu của các ngân hàng tuy có nhưng tốc độ còn quá chậm, các kế hoạch tái cơ cấu của NHNN trong giai đoạn 2011-2015 về cơ bản không đạt như kế hoạch đề ra.


Bốn là, tính minh bạch trong hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất hạn chế, chỉ có một bộ phận những NHTM đã niêm yết là có thể tiếp cận thông tin tương đối đầy đủ, còn lại thì số lượng và chất lượng thông tin, tính minh bạch của các NHTM còn lại không được đảm bảo.

Năm là, sự thiếu quyết liệt trong xử lý các NHTM hoạt động yếu kém của NHNN, nhất là gian đoạn trước năm 2015. Một thực tế tồn tại lâu đời trong hệ thống ngân hàng Việt Nam là chưa có một ngân hàng nào bị phá sản, trường hợp xấu nhất chỉ là việc tiến hành sáp nhập bắt buộc. Điều này đã tạo ra tâm lý chủ quan và ỷ lại của các NHTM Việt Nam vào NHNN (điển hình là việc trích lập dự phòng nợ xấu, có một thời gian các NHTM đều chần chừ trong việc phân loại nhóm nợ và trích lập dự phòng để chờ tín hiệu cứu viện từ NHNN và thực tế diễn ra đúng như những gì các NHTM chờ đợi khi NHNN đã nhiều lần thiếu dứt khoát trong việc điều hành để cứu các NHTM như việc trì hoãn thời gian thi hành tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng, trì hoãn trong việc trích lập và phân loại nợ trong thông tư 02, ban hành Quyết định 780,…). Theo dòng lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, ta cũng có thể thấy được các ngân hàng nằm trong diện phải tái cơ cấu bắt buộc trong giai đoạn 2011-2015 đều là những ngân hàng cũng trong diện tái cơ cấu trong những giai đoạn trước vào năm 1998-2003 và năm 2005-2008. Đây là một trong những hạn chế lớn nhất trong quản lý điều hành của Chính Phủ và NHNN trong lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

3.3 Thực trạng các thương vụ M&A giữa các NHTM Việt Nam trong giai đoạn2011-2015

Sau giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới vào cuối năm 2008, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đứng trước tình thế bắt buộc phải tiến hành tái cơ cấu ngay lập tức. Cụ thể, NHNN đã đưa ra đề án 254 “Tái cơ cấu các TCTD trong giai đoạn 2011-2015” với mục tiêu tái cơ cấu lại toàn bộ hệ thống các TCTD, đặc biệt trước tiên là với các ngân hàng có quy mô nhỏ hoặc đang có vấn đề trong hoạt động. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của NHNN, tính đến tháng 9 năm 2015, hoạt động M&A giữa các NHTM Việt Nam cho dù chưa thể được tiến


hành mạnh mẽ theo đúng như kế hoạch nhưng cũng đã đạt được một số kết quả khả quan trong việc tái cơ cấu các ngân hàng nhỏ và hoạt động yếu kém qua các thương vụ M&A như sau:

Bảng 3.1: Các thương vụ M&A của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-

2015


Các ngân hàng tham gia M&A

Ngân hàng sau M&A

Năm

Ficombank, TinNghiaBank, SCB

SCB

2011

Habubank, SHB

SHB

2012

PVFC, Western Bank

Pvcombank

2013

Đại Á Bank, HDBank

HDBank

2013

MHB, BIDV

BIDV

2015

MDB, Maritime Bank

Maritime Bank

2015

PGBank, Vietinbank

Vietinbank

2015

Sacombank, Ngân hàng Phương Nam

Sacombank

2015

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.

Hoạt động sáp nhập và mua lại của các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 8

Nguồn: Người viết tự tổng hợp

3.3.1 Thực trạng các vấn đề của các ngân hàng trước khi M&A [12]

Năm 2011: Thương vụ M&A giữa: Ficombank, TinNghiaBank, SCB.

Vấn đề chung của cả 3 ngân hàng này trước khi tiến hành M&A là vấn đề rủi ro thanh khoản, cụ thể, tỷ lệ tổng dư nợ cho vay trên nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và khách hàng ở cả 3 ngân hàng đều rất cao, lên đến trên dưới 100% (đặc biệt, ngân hàng đệ nhất trong năm 2009, tỷ lệ này lên tới trên 211,3%). Việc đẩy mạnh hoạt động cho vay rất cao so với khả năng huy động từ thị trường 1 và vấn đề chênh lệch kỳ hạn giữa huy động và cho vay đã khiến cho cả 3 ngân hàng này xuất hiện vấn đề trong khả năng thanh khoản và phải phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay từ các TCTD khác (điển hình, khả năng thanh toán ngay bằng VND của SCB năm 2010 chỉ ở mức 3,58%). Để giải quyết vấn đề thanh khoản của mình, vào cuối năm 2011, cả 3 ngân hàng này đã phải tiến hành M&A với nhau dưới sự chỉ đạo và kiểm soát của NHNN. Đây là thương vụ M&A giữa các NHTM Việt Nam đầu tiên diễn

12Số liệu trong Phụ lục 2.


ra tại Việt Nam trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo đề án 254, đánh dấu bước đầu cho xu hướng M&A trong quá trình tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam của NHNN.

Thương vụ M&A giữa 3 ngân hàng cơ bản không phải theo sự tự nguyện và kế hoạch phát triển của cả 3 ngân hàng mà do sự tham gia và chỉ đạo gián tiếp của NHNN. Việc không đồng nhất về quy mô trong vốn điều lệ, mạng lưới, doanh thu lãi giữa 3 ngân hàng, đặc biệt là giữa Ficombank với 2 ngân hàng còn lại (các chỉ số này của Ficombank, TinNghiaBank và SCB năm 2010 lần lượt là 2.000 tỷ -3.400 tỷ

- 4.185 tỷ; 16 - 75 - 116 và 304 - 4.000 – 5.000), tỷ lệ chuyển đổi cổ phiếu của cả 3 ngân hàng là 1:1:1 và việc không có một ngân hàng nào có tình hình tài chính ổn định để trở thành đầu tàu của cả 3 ngân hàng khiến cho thương vụ M&A này, về mặt khách quan là không mấy khả quan.

Năm 2012: Thương vụ M&A giữa Habubank và SHB.

Đây là thương vụ M&A tự nguyện do đạt được sự đồng thuận cao của cả 2 bên ngân hàng (lần lượt là 85,21% tại HBB và 99,4 % tại SHB). Tình hình hoạt động kinh doanh của cả 2 ngân hàng cũng đạt được những chỉ số hết sức khả quan trước khi M&A - giai đoạn 2009-2011 như đảm bảo hệ số an toàn vốn đều trên 12%, tỷ lệ tổng dư nợ trên vốn huy động của tổ chức kinh tế và dân cư đều dưới 100% (trừ Habubank năm 2011 ở mức 103,08%), các chỉ tiêu về khả năng sinh lời như ROA, ROE đều đạt mức cao (bình quân ROA, ROE trong 3 năm của Habubank và SHB là 1%, 10% và 1,5%, 15%), quy mô của cả 2 ngân hàng về vốn điều lệ cũng có sự tương đồng, lần lượt là 4.050 tỷ và 4.816 (cuối năm 2011). Vấn đề khó khăn lớn nhất trong thương vụ M&A này là việc giải quyết vấn đề nợ xấu của Habubank do chịu khoản nợ xấu lên đến 3.700 tỷ đồng từ Vinashin. Tuy nhiên, với việc NHNN hạn chế các ngân hàng trong việc mở rộng thêm chi nhánh và việc tỷ lệ chuyển đổi cổ phiếu là 1 cổ phiếu Habubank được 0,75 cổ phiếu SHB cùng với những mặt tương đồng về kinh doanh và mở rộng mạng lưới hoạt động thì trước mắt, thương vụ này có thể được đánh giá là một thương vụ M&A thành công khi thỏa mãn lợi ích của đa số các bên.


Năm 2013: Thương vụ M&A giữa Đại Á Bank và HDBank

Theo các thông tin tổng hợp, thương vụ M&A giữa Đại Á Bank và HDBank được thực hiện do cổ đông của HDBank đã âm thầm mua lại cổ phần của Đại Á Bank (40% cổ phần) sau vụ Bầu Kiên bị bắt. Cơ cấu cả 2 ngân hàng đều có nhiều điểm tương đồng về mặt quy mô vốn điều lệ (lần lượt HDBank và DAB trong năm 2011 là 3.000 tỷ và 3.100 tỷ) và đặc biệt là mạng lưới hoạt động khi HDBank có địa bàn ở Tp.HCM, trong khi DAB có địa bàn ở khu vực Đông Nam Bộ, hệ số khả năng sinh lời đều ở mức trung bình so với toàn hệ thống (ROE năm 2012 lần lượt là 6,05% của HDBank và 5,65% của Đại Á Bank). Đây là một thương vụ M&A có lợi cho cả 2 bên tham gia, qua đó giúp gia tăng quy mô vốn sau M&A lên 8.100 tỷ và mạng lưới hoạt động gần 200 điểm giao dịch, qua đó giúp gia tăng năng lực cạnh tranh của ngân hàng hậu M&A trên thị trường. Đây là một thương vụ nổi bật, mang đậm tính chất thâu tóm của HDBank và là một chiến lược kinh doanh quan trọng giúp HDBank gia tăng sức mạnh cạnh tranh của mình trong tương lai.

Năm 2015: Các thương vụ M&A: MHB & BIDV; MDB & Maritime Bank; PGBank & Vietinbank; Sacombank & Ngân hàng Phương Nam.

Các thương vụ M&A trong năm 2015 mang 2 mục tiêu: Thứ nhất, giải quyết vấn đề sở hữu chéo tồn tại trong các ngân hàng (MDB & Maritime Bank, Sacombank & Ngân hàng Phương Nam) và thứ hai, M&A giữa các ngân hàng có vốn cổ phần nhà nước chiếm đa số (MHB & BIDV, PGBank & Vietinbank).

Đánh giá về các thương vụ M&A ngân hàng trong năm 2015, xét riêng về hiệu quả kinh tế thì rất thấp hoặc có thể ảnh hưởng bất lợi đến ngân hàng lớn nhận sáp nhập, cụ thể:

Xem tất cả 166 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí